Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

Sức mạnh từ tĩnh lặng

Tất cả những nhân vật tôi gặp và phỏng vấn, quốc tịch khác nhau và đang làm việc tại nhiều nước, thế nhưng họ có chung một ngôi trường: Brahma Kumaris – Viện đại học tinh thần Ấn Độ - được thành lập từ năm 1936. Vì thế, những con người tôi đã gặp phỏng vấn, có rất nhiều điểm chung. Họ không bao giờ cảm thấy buổn rầu, không biết sợ hãi, không lo toan, họ sống một cách đầy trách nhiệm với cộng đồng nhưng lại rất hồn nhiên. Họ làm việc cật lực, nhưng không than mệt mỏi. Họ đầy tài năng, nhưng không một chút cao ngạo, lại càng không quan tâm đến chuyện kiếm tiền. Họ là những người phục vụ ân cần, nhưng rất đường bệ, phong nhã. Những người tạo cho tôi nhiều cảm hứng sáng sống, và thôi thúc tôi tìm đến tận ngôi trường mà họ đã theo học tập và rèn luyện. Một ngày đầu tháng 10-2008, tôi đã đến Mahuban, một địa danh thuộc vùng cao, vùng sâu của Ấn, nơi có ngôi trường, đào tạo ra những con người luôn mỉm cười hạnh phúc. Những người theo học tại đây, hầu hết đã hoặc đang theo học một chuyên ngành như bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư… Họ đến đây không phải học cách kiếm sống, mà học cách phải sống như thế nào, học cách phục vụ. Học suốt đời, không có ngày tốt nghiệp ra trường, không hạn chế số tuổi, không học phí. Cả người mới vào học, đến những người đã thành giảng viên… tất cả vẫn có những buổi ngồi học chung với nhau trong giảng đường lớn. Ngoài chương trình chính quy, viện còn tổ chức nhiều khóa học chuyên đề. Từ ngày 4 đến 11 tháng 10, gần 400 người từ 64 quốc gia đã tham gia khóa học “Peace of Mind” (POM) – Bình an tâm trí. Và tôi là một trong hai khách mời đến từ Việt Nam.

Một chi nhánh của Viện, nơi chúng tôi đến học có tên “Academy for a better world – học viện vì một thế giới tột đẹp hơn” tọa lạc trên núi Abu, gần như tách hẳn với khi dân cư, với khí hậu và quan cảnh như Đà Lạt ở xứ ta. Abu cách thành phố Amedabat khoảng 400 cây số. Giao thông đường bộ rất tốt, vì thế xe chạy như tên bắn. Lạ một điều, ở Ấn, chẳng thấy bóng dáng công an giao thông “bắn tốc độ” đâu cả. Những chiếc xe đò cũ kỹ, người ngồi trên mui đông hơn người ngồi trong xe, phóng nhanh ngay cả khi băng qua thị trấn, nơi có nhiều gia súc đi ngoài đường. Sau 3 tiếng đồng hồ chạy đường bằng, chiếc xe chở tôi băng qua quảng đường quanh co, uốn lượn suốt gần một tiếng đồng hồ nữa mới đến nơi. Cách đây 30 năm, khi trường bắt đầu xây dựng trên mảnh đất vùng cao này, còn là nơi thưa thớt dân cư. Vậy mà lúc tôi lên núi, xe chạy ngược xuống, người đông vô kể vào lúc trời tối. Hóa ra, trên núi có một cái hồ rất thơ mộng, và là nơi hẹn hò của các chàng trai cô gái nhà giàu, lái xe đưa nhau đi chơi.

Tôi có cảm giác như về nhà khi vào trường, nhận phòng. Đội ngũ đón tiếp học viên rất dễ thương, nhiệt tình. Một môn học nhiều tiết nhất là môn… thinh lặng. Đó cũng là môn dạy mà như không dạy. Mỗi buổi sáng bắt đầu từ 6h30’ sau giờ tập thể dục, chúng tôi ngồi im lặng, trong giảng đường khoảng nửa tiếng, để tâm trí thư thả theo giọng nói dịu dàng của một cô giáo trẻ. Bằng ngôn ngữ, cô vẽ lên một khung cảnh tươi mát, thanh bình. Tiếp theo, là 40 phút Silent walk (đi bộ im lặng). Không có những lời thông báo ầm ĩ, chúng tôi cứ nối nhau, băng qua những con đường mòn quanh núi, cỏ ven đường ướt đẫm sương vui đón những tia nắng ban mai. Đàn bò không người chăn rải rác ven đường, thanh thản gặm cỏ. Người nhóm trưởng dẫn đường bằng tiếng sáo du dương, tha thiết. Trong thời khóa biểu của bảy ngày học, có đến 3 bữa ăn sáng trong im lặng, và có một ngày im lặn từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối. Có lẽ, chưa bao giờ tôi im lặng trong lúc ăn. Hoặc có im lặng khi ngồi ăn một mình, trong đầu tôi cũng đầy suy nghĩ. Vậy mà đến đây, tôi lại im lặng một cách khá dễ dàng. Tôi hay đi một mình, ăn cũng một mình. Sau này, tôi mới biết rằng, vì cảnh xung quanh tôi đẹp quá, an lành quá khiến tôi luôn ý thức phải thưởng thức từng giây phút một trong khoảng thời gian lưu lại đây. Thật là mất lịch sự khi quấy phá sự bình an của thiên nhiên. Nơi tôi thường ngồi ăn, ở tầng hai nhìn ra một ngọn núi. Thiên nhiên làm người ta dễ dàng quên hết mọi thứ đáng quên. Ấn tượng nhất là giờ học im lặng trên đỉnh cao nhất của núi Abu vào lúc 5 giờ chiều. Thiên nhiên quả là có phần thưởng cho những người không ngại leo dốc. Cả 400 người im phăng phắc, trên một mặt bằng khá phẳng, đã từng là miệng của một ngọn núi lửa. Không ai nói câu nào, không phải vì đã thấm mệt, mà vì ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của mặt trời đang lặn. Tôi chưa bao giờ thấy mặt trời quá gần, và dịu dàng, nhân hậu, thông thả như thế. Một khối con người sau một ngày làm việc siêng năng, công bằng, hào phóng. Từ nơi tôi ngồi, nhìn quanh là vách núi chập chùng, nhìn xuống là vực thẩm hun hút, xa tít là những cánh đồng mênh mông, cắt khúc bởi dòng sông lững lờ trôi. Một bức tranh hoàng hôn sống động và thanh bình. Trước thiên nhiên quá đỗi hùng vĩ và ngọt ngào, tôi cảm thấy hồ đồ khi nghĩ đến chuyện chinh phục thiên nhiên. Nghe sao hả hê, cao ngạo quá! Cũng như khi yêu một người con gái xinh đẹp và được cô ta gật đầu đồng ý, đâu có chàng trai nào dám nghĩ mình đã chinh phục được người mình yêu. Bởi trái tim của anh ta đang tràn ngập yêu thương, bàng hoàng, ngây ngất muốn thuộc về cô ấy. Tạo hóa đã gởi an bình vào thiên nhiên, để làm quà cho chúng ta. Tôi nấn ná tạm biệt mặt trời đã khuất dạng, quay lưng, ra về. Nhưng rồi, tôi lại tiếp tục đứng chôn chân một chỗ: mới 5 giờ chiều, trăng đã lên từ phía sau chúng tôi. Trăng cũng gần đến nỗi, ước mơ của tôi được đặt chân lên vùng đất có “chú cuội, cây đa” không hề viễn vông. Lần đầu tiên trong đời, tôi nhận ra trăng cũng có khả năng tỏa những tia “nắng” lấp lánh xuống mặt hồ và làm cho những tòa lâu đài trên núi thêm lộng lẫy, hư ảo.

Chỉ có trong thinh lặng, chúng tôi mối thưởng thức trọn vẹn cái đẹp của trời đất. Biết say dắm trước thiên nhiên là một biểu hiện của một tâm trí bình an. Thiên nhiên trở thành công cụ dạy học. Tôi nhìn vách đá, để học cách thinh lặng, bởi có gì lặng thinh hơn vách đá. Chúng đầy sức sống, chứ không phải im ắng của sự hoang tàn, chết chóc. Mặt trời dạy cho tôi bài học phục vụ không hề mệt mỏi. Cái đẹp của hoàng hôn cho tôi biết chấp nhận quy luật sáng tối tiếp nhau. Nhìn ánh trăng trong vắt, tôi ước mình cũng dịu dàng, ngọt ngào như thế. Tôi chợt hiểu ra, cũng chỉ thinh lặng, chúng tôi mới dọn dẹp được mọi sự xung đột bên trong tâm hồn.

Trong ngày đầu tiên, đội ngũ giáo viên của trường ra mắt chúng tôi trong bộ trang trang phục màu trắng. Không chỉ những cô giáo người Ấn, mà hầu như các cô giáo đến từ châu Âu cũng đều thật nền nã trong chiếc saree trắng tinh. Ngay ngày hôm sau, màu trắng đã lan sang người đi học. Mọi người nhanh chóng đến một ngôi làng cách trường khoảng năm cây số để mua bộ quần áo màu trắng. Những người thợ may vừa dễ thương, vừa tinh tướng tiếp đón, để rồi cuối cùng nhiều khách hàng mở rộng túi tiền may đo may đo đến năm hoặc sáu bộ. Học viên bỗng nhiên yêu màu trắng, dù có không ít người trước đó nửa ngày còn cho rằng màu trắng rất bất tiện khi sử dụng, mau dơ, khó giặt sạch… Thế mà, bây giờ, họ thay đổi, cả lớp màu trắng, giảng đường màu trắng. Và nhất là tâm hồn con người cũng “trắng” ra, bớt tăm tối, toan tính. Những người trên sân khấu, không chỉ truyền đạt cho chúng tôi thay đổi. Chúng tôi muốn giống họ không chỉ màu áo bên ngoài, mà còn muốn bị “lây” cả sự thông thái, phong thái ung dung, tự tại nhưng rất sống động của họ.

Môn học thứ hai không hề có trong thời khóa biểu, học mà không biết mình học là luôn mỉm cười với cả người không quen. Nụ cười mới thật sự là ngôn ngữ chung của con người trên trái đất. Đối với người Phương Tây, cười không dễ dàng thực hiện được mọi nơi, mọi lúc. Còn đối với người Việt, vốn được coi là “Những người thích cười”, vậy mà trong một lần phát biểu tại hội nghị tuyên dương những tấm gương sống tốt, một vị lãnh đạo đã vui mừng công bố một thay đổi: “Cán bộ đã cười với dân nhiều hơn”. Cười không dễ dàng trong thời đại có stress. Nụ cười trên môi phải là một phản ảnh chân thành của tâm trạng tươi vui bình an, chứ không phải cử động các cơ trên mặt để làm vui lòng cấp trên, để làm đẹp mình trước ống kính. Khi về đến nhà, vào ra đường, vào cơ quan… tôi vẫn giữ được “trớn” nở được nụ cười tự nhiên, với tất cả mọi người tôi gặp, không phân biệt sang hèn, địa vị cao thấp, tôi mới biết rằng tôi vừa học được một thói quen mới, và ráng duy trì nó.

Trong ngôi trường tôi học, hầu như xung quanh tôi, toàn những khuôn mặt đang cười. Những người trong ban giảng dạy, những học viên chính quy, những anh chị phụ trách khâu nấu nướng, giặt giũ.. . Nói tóm lại, những người mặc bộ quần áo màu trắng, có khuôn mặt của tình yêu, tình anh em. Nụ cười của họ gởi đến tôi lời chào của một người thân. Tôi cũng cười đáp trả như gặp người thân. Không dễ gì được người lạ ban cho một nụ cười. Hơn thế, nụ cười của mọi người ở đây kèm theo một lời chúc tốt đẹp. Bạn có ý thức điều này khi mỉm cười không? Suốt hai tuần của khóa học, chúng tôi được thưởng thức các món ăn chay của Ấn. Ăn chay là quy định của nhà trường dành cho các học viên chính quy, và cả khách đến học, hay tham quan. Đối với người nước ngoài, tham gia khóa học ngắn hạn, thức ăn chay đã được gia giảm các gia vị Ấn, nhưng vẫn khó dùng trong những bữa ăn đầu. Thế nhưng, mọi người vẫn thích ăn. Bởi đây là các loại thức ăn được nấu trong một gian bếp tĩnh lặng. Các đầu bếp cũng là các thiền sư, thiền sinh. Những món súp, món rau xào… chứa đẫm các giá trị sống: yêu thương, quý mến, vui vè, bình an. Tôi hiểu ra, trong mỗi gian bếp gia đình, một bà vợ nhân hậu, yêu thương, vui vẻ… sẽ tạo ra những mâm cơm ngon lành đầy chất dinh dưỡng. năng lượng tích cực từ người nấu tỏ ra là một loại gia vị đặc biệt, thẩm thấu vào thức ăn còn dễ thấm hơn là mắm muối. Ngược lại, nếu mang tâm trạng bất an, vừa nấu vừa giận hờn, bực bội… thì chẳng khác nào người nấu bỏ chất độc vào mâm cơm gia đình.

Dadi Janki, hiệu trưởng của viện, một trong những nhà thông thái của thế giới. Đây là một nhân vật cực kỳ đặc biệt. Ngoài 90 tuổi, bà là một tấm gương về sự minh mẫn, năng động và làm việc hăng say. Bà đã từng sang Việt Nam, nói chuyện trước công chúng tại TP.HCM vào năm 2006. Nay đúng thời điểm đó, tôi đi công tác tại Đài Loan, nên hụt buổi phỏng vấn Dadi, mà trung tâm Innerspace TP. Hồ Chí Minh ưu ái dành cho tôi. Nhưng, có duyên ắc sẽ gặp lại. Song, lần này, tại Ấn Độ, tôi chì muốn là một người học trò của bà, chứ không phải vai nhà báo xin gặp phỏng vấn. Bà hướng dẫn chúng tôi quan sát cảm xúc của bản thân trong một bài giảng của bà. Bà nhắc nhở chúng tôi luôn kiểm tra các giác quan của thay đổi chúng (check and change). Đừng để các giác quan (tay, mắt, mũi, miệng, tai) làm chủ, dẫn dắt chúng ta theo thói quen, tật xấu của chúng.

Tôi bị thu hút bởi người phụ nữ đặc biệt này. Dáng người bé nhỏ, nhưng bà rất “đường bệ”. Bà giảng bài bằng tiếng Ấn, có người dịch ra tiếng Anh, nhưng tôi không đeo tai nghe, vì chỉ muốn thưởng thức trọn vẹn giọng nói của bà. Không thể hiểu được tiến Hindu, nhưng tôi cảm nhận được sự mạnh mẽ của một giọng nói vang sang sảng, rất “ăn” micro. Một điểm đặc biệt khác của bà nằm ở đôi mắt, to đen láy, với hàng mi dày, rậm. Sau mỗi bài giảng, bà đứng lên, nhìn khắp lớp học. Ánh mắt của bà dừng lại từng người, dường như không sót một ai. Cả lớp im phăng phắc, đón nhận ánh nhìn của bà như dòng chảy của sự quan tâm, yêu thương. Dadi “oai phong” lại rất dễ gần. Một lần, bà sắp sửa bước vào sân khấu, tôi vội ôm lấy bà, và giữ lại. Ngay lúc đó, cô bạn của tôi bấm máy. Thế là, trong rất đông các học trò, tôi là người may mắn có một tấm hình chụp chung hết sức thân mật, gần gũi với Dadi. Trong tình huống “bị” chụp rất bất ngờ, Dadi vẫn có một nụ nười rất tươi, rất hiền.

Dadi janki chia sẻ kinh nghiệm: “Sống là để cho tình yêu hướng dẫn mọi hành động. Một lối sống rất tự nhiên. Và hạnh phúc là mỗi ngày, chúng ta có thể kết nối với nguồn năng lượng sống của vũ trụ. Đó là sự thật. Tâm trí không bình an là do ta còn có những điểm yếu kém ở bên trong”.

Một giảng viên cao niên khác Dadi Gulzar, thiết tha với bài “Hạnh phúc ra khỏi cuộc đời như thế nào?”. Chính suy nghĩ tiêu cực của chúng ta đã đuổi hạnh phúc ra đi. Đó là lúc, bạn cứ ghi trong lòng những câu nói của người khác mà bạn không muốn. Tiếng khóc của tâm trí sẽ òa lên khi trước tình huống, bạn đặt ra quá nhiều câu hỏi: tại sao, tạo sao… nhiều đến nổi tâm trí rối tung không thể tìm ra giải pháp hợp lý.

Giảng viên, bác sĩ Dadi Nirmala, gởi đến chúng tôi bài học “Kiểm soát tình huống” bằng cách suy nghĩ thật thận trọng: “Tôi nên hay không nên…” trước mọi hành động. Bởi có những hành vi thiếu suy nghĩ, nên sau đó, bạn tốn rất nhiều thời gian để vượt qua sự hối hận, mà đôi khi phải hối tiếc suốt đời.

Còn rất nhiều chia sẻ khác của một ban giảng viên nhiệt tình, tha thiết để giúp học viên nâng cao sức mạnh tinh thần.

Xen kẽ với các giờ học, chúng tôi còn được đi thăm bệnh viện Toàn Cầu, nơi chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, với nhiệm vụ “Mang lại nụ cười từ trái tim”. Đây là một “giảng đường” khác của Viện đại học tinh thần, mà nhiều bác sĩ, nhân viên Phương Tây chọn làm nơi công tác vô thời hạn. Một buổi chiều đẹp trời, chúng tôi còn được đưa đi tham quan một ngôi đền. Không ngờ, ở chốn “ vùng sâu, vùng xa” của đất Ấn ngày nay, lại là một thời kinh đô, mà ngôi đền tuyệt đẹp với màu đá trắng là bằng chứng rất rõ ràng.

Chúng tôi chỉ tốn tiền mua vé máy bay, phần ăn, ở nhà trường “bao cấp”. Căn phòng chúng tôi ở sạch sẽ, thoát mát, như khách sạn, nhưng không có tivi, của phòng không có khóa. Suốt một tuần “ăn học” được nhà trường chăm sóc tinh thần, đầu óc của chúng tôi trở nên thật sự thư giãn, bình an. Buổi tối trước khi chia tay, các học viên đã bất ngờ biểu diễn một chương trình văn nghệ vui độc đáo. Nghệ thuật đến từ trái tim, quả là món quà quý giá.

Bà Dadi Nirmala, một thành viên trong ban tổ chức cho biết: “POM đã được tổ chức hàng năm trong suốt 12 năm nay. Số học viên đến từ các nước phát triển luôn chiếm số đông. Trong số đó, phần lớn là các doanh nhân, là nhà quản lý… có nhu cầu muốn thoát ra ra rắc rối từ cuộc sống. có người đưa cả vợ con cùng đi học, và có ý thức duy trì sự bình an khi trở lại với công việc.

Ấn Độ là một đất nước có nhiều câu chuyện kỳ diệu, nhưng rất thật, không hề nằm trong kho tàng cổ tích hay thần thoại. Ai cũng biết, đây là nơi dừng chân của một vị thái tử từ bỏ ngai vàng, trở thành Phật. Các đây ba ngàn năm, những câu chuyện về Đức Phật vẫn luôn “thời sự” đối với các phật tử và người hành hương. Nhân việt này vẫn rất gần gũi với người Việt chúng ta. Chuyện của Gandi, vị anh hùng giải phóng dân tộc, làm nức nở lòng người, với câu nói: “Người Anh, hãy rời Ấn Độ như những người bạn”. Khi sang Ấn, tôi đến tận nơi thiêu xác ông, bây giờ là điểm tham quan của người Ấn của du khách. Người ta đến và nhớ ông qua một ngọn lửa rực rỡ ngày đêm trong một công viên tại Newdeli. Đất nước Ấn, không chỉ là nơi sinh sống của các nhà thông thái, nhà thần học, mà còn của những con người được phong thánh ngay lúc còn sống, mà điển hình là mẹ Theresa, người làm “Một trong những việc nhỏ trong muôn vàng việc nhỏ của bà, là tạo ra một ngôi nhà cho những người già lang thang sắp chết, để họ được sống những ngày cuối đời như một con người, và chết như một con người. Ngôi nhà của bà tại thành phố Cacuta, trở thành địa chỉ của những người tình nguyện từ khắp nơi trên thế giới. Điều kỳ lạ, là ở trạm dừng trân của những người sắp ra đi vào cõi vĩnh hằng, không hề mang mầu u tối, lạnh lẽo, mà tràn ngập tình yêu. Vì thế, khi đến ngôi trường brahma Kumaris thánh thiện này, tôi không hề ngỡ ngàng hay ngạc nhiên khi nghe thêm một câu chuyện kỳ diệu nữa.

Người thành lập ngôi trường từng là một nhà buôn kim cương. Ông tên là Dada Lekhraj, sinh năm 1876, trong một gia đình trung lưu. Cha ông là giáo viên, nhưng ông lại khởi nghiệp bằng việc bán lúa mì. Khi đã có một số vốn, ông chuyển sang lĩnh vực kinh doanh kim cương. Với khả năng phát hiện và phân loại giá trị của những viên đá quý, chăm chỉ làm việc… danh tiếng của ông nhanh chóng nổi lên và trở thành một người giàu của Án. Vua và giới hoàng tộc là khách hàng thân thiết của ông. Còn ông là vị khách quen thuộc và danh dự của các cung điện. Ông sinh ra trong cộng đồng người Sindh, một cộng đồng theo đạo Hindu, một tôn giáo cổ nhất và đậm chất Ấn Độ. Ông rất tôn thờ Thượng Đế, các vị thần Ấn, và vì thế ông rất hâm mộ các vị đạo sĩ. Dù trong môi trường sống ảnh hưởng lối sống phương Tây, ông vẫn giữ đạo rất nghiêm túc bằng các nghi lễ thờ cúng thánh thần, ăn chay, trung thực trong suy nghĩ, lới nói, việc làm. Ông được mọi người quanh vùng yêu quý vì sự giản dị và rộng rãi của ông đối với người nghèo khó. Người ta biết ông là một nhà từ thiện, hảo tâm hơn là nhà buôn.

Ở Ấn, khi đến tuổi nghỉ hưu, những người đàn ông thiên về tâm linh sẽ rời khỏi nhà, vào rừng sống đời ẩn sĩ. Năm 60 tuổi, Dada muốn kiếm thêm một số tiền nữa để ban tặng cho người nghèo, trước khi rút về sống ẩn. thế nhưng, ông bắt đầu có những trải nghiệm rất lạ lùng, cảm thấy sự hiểu biết tăng lên, và tầm nhìn sáng suốt hơn.

Trong im lặng, ông trải nghiệm Nguồn Năng Lượng thánh thiện. Chính trải nghiệm này đã tạo cho ông cảm hứng cống hiến hết của cải vào việc lập trường, và nuôi dạy những người theo học. Suốt ba mươi năm còn lại trong đời mình, ông dân nộp trí tuệ, sức khỏe, sức lực, tài sản… vào công việc phục vụ con người. Tôi không muốn kể nhiều đến gian truân, thử thách đến với ông, bởi ông không bao giờ coi đó là “khó khăn”. Càng không thể nói ông là tấm gương “người tốt, việc tốt” hay “vượt khó”. Đối với những người có trái tim thánh, thì mọi sự không thể đều có thể.

Ngay từ lúc mới thành lập, ngôi trường đặc biệt này đã có số học viên nữ chiếm đa số. Dada coi họ như con cái. Ngôi trường có tên brahma kumaris, có nghĩa là những đứa con gái của Thánh kumaris. Ở một đất nước, “nuôi con gái như làm vườn cho hàng xóm” người phụ nữ lấy chồng phải có của hồi môn, chuyện học hành chỉ dành cho con nhà khá giả, quý tộc, thì những con gái nhà nghèo, đến đây được nuôi dạy, học miễn phí là một chuyện kỳ diệu thời bây giờ. Những cô gái thời đó, giờ tóc đã bạc đều. Nhiều người trong số họ không nổi bật như Dadi Janki, nhưng họ là một bằng chứng thuyết phục cho việc thay đổi cuộc đời mình bằng kiến thức và thiền định. Trao kiến thức để phụ nữ mạnh mẽ, tự tin là mục tiêu của nhà trường, theo phương châm “Phụ nữ đi lên – thế giới đi lên”. Đến nay Viện đã phát triển 8000 trung tâm trên toàn nước Ấn Độ và tại 120 nước. Số học viên đã trở thành giảng viên là 850.000 người (2/3 là nữ). Tại Việt Nam, chi nhánh của Viện là Trung tâm Innerspace – Làm giàu thế giới nội tâm (TP. Hồ Chí Minh), người quản lý là cô giáo trish Summerfield, người New Zealand.

Trường Sơn – Nguồn trích từ sách “Đầu tư cho tâm hồn”

Không có nhận xét nào: