Bài 1: Đêm Sing và đêm Ấn
Bài và ảnh: Nguyễn Hồng Việt
![]() |
Xe tuk-tuk trên đường phố Dehli, Ấn Độ |
Chuyến bay của hãng Tiger Airways từ Nội Bài sang Singapore được thông báo chậm giờ. Đã quá quen với các thể loại “sorry airlines” nên tôi và Hùng - Thư ký Tổng giám đốc tập đoàn Nam Cường điềm nhiên lôi báo ra đọc, nhưng Vân - Phó giám đốc Trung tâm UNESCO Giáo dục quốc tế thì thảng thốt: “Chết rồi! Vậy là các chuyến sau cũng trễ cả”. Thì ra Ban tổ chức đặt vé cho chúng tôi “đi đường vòng”, transit qua Singapore đến Mumbai, sau đó đi Ahmedabad; các chuyến bay liên tiếp khá cận giờ, quên tính chuyện máy bay có thể “tắc đường, xịt lốp”.
Dù cười tươi động viên Vân rằng mấy vụ lỡ độ đường luôn là cơ hội tuyệt vời cho cánh báo chí trải nghiệm và viết được nhiều hơn, nhưng tôi cũng bắt đầu sốt ruột. Đáp xuống sân bay quốc tế Changi, chúng tôi chỉ còn hơn 30 phút để làm thủ tục bay tiếp, trong khi các nhân viên Sing nhã nhặn nhưng rất cẩn thận kiểm tra kỹ đống tài liệu phục vụ hội thảo; chắc họ ngại du khách mang ấn phẩm “nhạy cảm” vào nước họ. Ra cửa, không dám chờ xe buýt miễn phí, nháo nhào lên taxi phóng từ Terminal Budget sang Terminal 3. Hai năm trước, khi tới Sing lần đầu, tôi từng ngưỡng mộ sự hoành tráng của sân bay Changi, ao ước đến ngày Việt Nam cũng sẽ có một cảng hàng không hiện đại và bát ngát như thế. Nhưng lần này đành tếu táo chia sẻ với 2 bạn đường rằng giá Changi chỉ như Nội Bài thì tốt hơn(!), khỏi phải chạy rẽ đất rẽ cát hơn chục cây số từ cửa này sang cửa khác.
Kết cục là chạy đứt hơi mà vẫn muộn. Chị nhân viên đứng tuổi ở quầy thủ tục vội vàng gọi điện, rồi chạy bổ vào trong can thiệp giúp chúng tôi, nhưng cửa máy bay đã đóng, chị đành lắc đầu “xin lỗi quý khách”. Dù chẳng ai muốn “nghĩ xấu” về quê nhà, cũng phải công nhận thái độ phục vụ của nhân viên sân bay ở đây hơn hẳn “bên mình”. 3 kẻ lỡ đường thất thểu ra ghế chờ, tự an ủi rằng ngày xưa Đường Tam Tạng sang Tây phương bái Phật cầu kinh còn gian nan gấp vạn... Hình như đức Phật ngự bên Ấn Độ xa xôi cũng nghe thấu lời than(!), nên ngài cử đến một “nữ Bồ Tát” trong hình hài cô gái Singapore 27 tuổi, làm tại Công ty dịch vụ vé Baba Travel. Nghe thủng chuyện của chúng tôi, cô sốt sắng chạy đi tìm các nhân viên quen biết trong sân bay để hỏi giúp, rồi chân thành mời: “Sớm mai mới có chuyến, các anh chị về nhà em nghỉ tạm nhé!”. Tôi từ chối, ngại làm phiền gia đình không quen biết, hơn nữa cũng không có visa vào Sing, nhưng cô rất nhiệt tình kéo chúng tôi ra xe: “Brother (anh trai) đừng ngại, có ai hỏi thì em bảo đảm cho. Hai anh sẽ nghỉ cùng bố em, còn chị nghỉ cùng em nhé. Em tên là Isabelle, anh cứ gọi thân mật là Isha”.
Chưa hết ngại ngùng, nhưng chúng tôi khoan khoái ngả mình trên ghế êm khi chiếc xe bon nhanh qua những đường phố hoàng hôn đầy hoa và rực rỡ đèn màu. Isha sống cùng bố và anh chị trong căn hộ xinh xắn ở một chung cư cách sân bay chừng hai chục cây số. Trong khi cả nhà thân mật đón chúng tôi, Isha nhanh nhẹn vào bếp. Trước khi lên đường, tôi và Hùng đã được “cảnh báo” chuẩn bị tinh thần ăn chay trường trong Học viện Brahma Kumaris, không ngờ “tuần chay” bắt đầu ngay trên đất Sing, vì gia đình Isha cũng ăn chay. Món ăn cô nấu có hương vị rất lạ, và ngon tuyệt, khiến các vị khách lạ quên cả rụt rè...
Tôi vừa đặt mình xuống chiếc sofa lớn êm ái mà Isha “đặc cách” bố trí thành giường ngủ, thì cô chị - Kasmira - đang ngồi trước máy tính, ngoái lại reo: “Đổi được vé cho các anh chị đi Ấn Độ rồi, nhưng không phải đến Mumbai mà là đến Dehli, có ổn không? Nếu được thì phải đi luôn kẻo lại trễ”. Thế là tốt quá rồi. Từ Mumbai đến Ahmedabad – nơi Học viện có cơ sở đón khách để đưa lên núi – khoảng hơn 400 km, còn từ Dehli đến Ahmedabad là hơn 700 km, xa một chút nhưng được biết thêm một thành phố của Ấn Độ, vì đằng nào lúc về cũng qua Mumbai. Chúng tôi cảm ơn gia đình Singapore hiếu khách, định gọi taxi, nhưng cả nhà nhất định không chịu, hai chị em lại lấy ôtô đưa chúng tôi quay lại sân bay, lần này thì Kasmira cầm lái. Isha dúi cho tôi mảnh giấy ghi số điện thoại và địa chỉ của cô: “Chuyến về nếu có trục trặc gì, anh nhớ gọi em nhé!”. Chúng tôi cảm động chia tay những người bạn Singapore tốt bụng.
Đồng hồ của tôi chỉ 5h20 khi chiếc A-320 của Jet Airways đáp xuống Thủ đô Dehli của Ấn Độ. Màn đêm đen đặc vẫn bao trùm thành phố 13 triệu dân nằm bên hai bờ sông Yamuna, vì theo giờ Ấn thì lúc này chưa đến 4h sáng. Giao thông đã khá tấp nập, những chiếc ôtô bóng lộn phóng vụt qua bên những chiếc xe đạp kéo chở hàng, nhưng nhiều hơn cả là các loại ôtô rẻ tiền, nhỏ và cũ kỹ, cùng hàng đoàn tuk-tuk 3 bánh. Cảm giác bất an chợt đến khi dưới ánh đèn vàng bụi bặm bên ngoài sân bay và trên đường phố nhan nhản cảnh sát dã chiến được vũ trang bằng súng ngắn và tiểu liên. Một vài góc còn chất bao tải cát hoặc bố trí xe bọc thép với súng máy. Cũng dễ hiểu vì chỉ hơn 1 tháng trước, vào ngày 7/9/2011, 12 người chết và 76 người bị thương trong vụ đánh bom ở Tòa án Tối cao New Delhi, chỉ cách trụ sở Quốc hội và Văn phòng Thủ tướng khoảng 1 km...
Cảm giác bất an lặp lại với “cường độ” cao hơn trên đường về, khi chúng tôi có một đêm ở Mumbai (trước đây được gọi là Bombay – “mẹ của các thành phố”), thủ phủ của bang Maharashtra, thành phố đông dân nhất Ấn Độ - khoảng 18 triệu người. Sau vụ khủng bố tháng 9/2008 làm hơn 170 người chết, tình hình ở Mumbai thường xuyên căng thẳng do nhiều vụ tấn công khác. Đêm 27/11/2008, thành phố trung tâm tài chính và điện ảnh của Ấn Độ này chìm trong bạo lực khi bom nổ ở khách sạn Taj Mahal và bắn giết điên cuồng tại nhà ga trung tâm, khiến 82 người thiệt mạng. Gần đây nhất, tối 13/7/2011, ba vụ nổ liên hoàn làm rung chuyển Mumbai, 21 người chết và 113 người bị thương.
Trong sân bay Dehli, chúng tôi phải qua 3 vòng kiểm tra an ninh nghiêm ngặt; còn tại Mumbai thì đến 5 lần bị lục soát kỹ lưỡng, cái bật lửa nhỏ vốn “vô tư” qua một số sân bay, đến đây lập tức bị tịch thu, cái bánh vừa mua cũng phải đưa vào máy quét. Tất cả mọi người muốn qua cổng sân bay phải xuất trình hộ chiếu và vé (điện tử) đã in ra giấy. Cảnh sát đã “làm hộ” phần lớn công việc của các nhân viên sân bay.
Không khí căng thẳng đối lập hẳn với khung cảnh thanh bình bên ngoài, nơi từng đàn bồ câu và sáo nhởn nhơ ríu rít lúc rạng sáng và những con bò với cặp sừng cong vút - được coi là “linh vật” ở Ấn Độ - nghênh ngang dạo phố. Lũ khỉ đuôi dài - con cháu của thiên thần Hanuman - chễm chệ ngồi trên cành cây bên đường nườm nượp người xe, trên mái nhà hay tường rào nhà dân và công sở. Có cả vài con voi (được gọi là Ganesha - con của thần Shiva) lừng lững giữa đường và lạc đà kéo xe chở nông sản. Cuộc sống của người dân lam lũ vẫn tiếp nối như vòng quay của tạo hóa, như nằm ngoài những bất ổn mang màu sắc chính trị hay tôn giáo.
Đêm Ấn bình yên hơn khi chúng tôi đến Ahmedabad, thành phố lớn nhất bang Gujarat và lớn thứ 7 ở Ấn Độ, dân số khoảng 5,1 triệu người, trải dài hai bên bờ sông Sabarmati, nơi mà sự hiện diện của các nhân viên an ninh đã bớt “dày đặc”. Và đêm Ấn thanh bình, trong lành, ngát hương hoa trên núi Abu - cách Ahmedabad 270 km, nơi Học viện Brahma Kumaris tọa lạc giữa những cánh rừng xanh ngát, những đền đài cổ và những bản làng với người dân chất phác thân thiện. Dù rằng, xa xa vẫn vẳng về tiếng súng diễn tập chống khủng bố, thỉnh thoảng lay động ánh trăng sao...
Bài 2: Trên núi Abu
![]() |
Bến xe buýt miễn phí với lời chào “Om shanti” trên đầu xe
|
Một nhân viên khác của Trạm - chị Cherry, người Anh gốc Hoa đã định cư tại Ấn Độ nhiều năm - vồn vã mời chúng tôi lót dạ trước khi lên núi. “Tuần chay” chính thức bắt đầu với món xúp khoai tây và ly trà Ấn thơm mùi sữa bốc hơi nghi ngút. Trời khá nóng, tôi ngỏ ý xin chút đá, Cherry chạy đi lấy ngay, nhưng có vẻ ngạc nhiên và mọi người trong bếp cùng tò mò nhìn tôi “pha chế” món trà đá. Họ chưa thấy ai uống trà Ấn theo cách đó.
Trạm có hơn 20 nhân viên, trong vòng 2 ngày đã đón tiếp tới 273 khách quốc tế, thật chẳng phải việc dễ, nhưng tất cả đều chu đáo và chuyên nghiệp, điều đặc biệt là không thấy “người chỉ huy”, chẳng cần ai ra lệnh mà mọi việc cứ đều tăm tắp. Đến đây tôi mới thực sự tin lời Vân dặn trước đó rằng “có việc gì cần, anh cứ nhờ bất kỳ người nào của Học viện, họ luôn giúp rất nhiệt tình”.
Hành trình hơn 270 km từ Ahmedabad lên núi Abu, nơi Học viện Brahma Kumaris đóng trụ sở chính, khá êm thuận, hệ thống quốc lộ của Ấn Độ tương đối tốt. Khoảng cách giàu nghèo rất lớn trong dân cư Ấn Độ, ai cũng dễ dàng nhìn thấy ngay; những thị trấn sầm uất nhiều màu sắc ven quốc lộ xen kẽ các làng mạc tiêu điều xác xơ trong sa mạc. Cherry bảo năm nay mưa nhiều nên cây cối mùa màng mới khá xanh tốt, còn mấy năm trước dọc tuyến đường này lắm quãng chỉ thấy hoang mạc trải dài. Tại mấy trạm nghỉ dọc đường, khá đông những người bán hàng rong và hành khất xúm lại khi xe vừa dừng bánh. Chỉ cần mềm lòng dúi cho một em bé vài rupee, chúng tôi lập tức bị “bao vây” chặt cứng. Và càng lắc đầu từ chối, đám hàng rong càng níu kéo - vì ở Ấn Độ lắc đầu có nghĩa là đồng ý mua. Trong trạm nghỉ, hàng hóa lèo tèo, nhà vệ sinh thì nhếch nhác bốc mùi đến mức nhiều người quay ra ngay sau khi xếp hàng định vào.
Hành trình hơn 270 km từ Ahmedabad lên núi Abu, nơi Học viện Brahma Kumaris đóng trụ sở chính, khá êm thuận, hệ thống quốc lộ của Ấn Độ tương đối tốt. Khoảng cách giàu nghèo rất lớn trong dân cư Ấn Độ, ai cũng dễ dàng nhìn thấy ngay; những thị trấn sầm uất nhiều màu sắc ven quốc lộ xen kẽ các làng mạc tiêu điều xác xơ trong sa mạc. Cherry bảo năm nay mưa nhiều nên cây cối mùa màng mới khá xanh tốt, còn mấy năm trước dọc tuyến đường này lắm quãng chỉ thấy hoang mạc trải dài. Tại mấy trạm nghỉ dọc đường, khá đông những người bán hàng rong và hành khất xúm lại khi xe vừa dừng bánh. Chỉ cần mềm lòng dúi cho một em bé vài rupee, chúng tôi lập tức bị “bao vây” chặt cứng. Và càng lắc đầu từ chối, đám hàng rong càng níu kéo - vì ở Ấn Độ lắc đầu có nghĩa là đồng ý mua. Trong trạm nghỉ, hàng hóa lèo tèo, nhà vệ sinh thì nhếch nhác bốc mùi đến mức nhiều người quay ra ngay sau khi xếp hàng định vào.
Hình ảnh đối lập là một điểm “thu thuế tự nguyện”, nơi khá nhiều người - trong số đó có những dân nghèo, áo quần sờn rách, phơi mái tóc quăn tít rối xù dưới nắng lửa - ghé qua để tùy tâm đóng góp cho chính phủ, có thể chỉ là một vài rupee từ số tiền ít ỏi họ kiếm được hàng ngày...
Không khí mát dịu khi xe lên đến đỉnh núi Abu ở độ cao trên 1.000m. Học viện Brahma Kumaris có cơ ngơi hoành tráng gồm hai khu cách nhau hơn chục cây số, mỗi khu phục vụ được cả vài ngàn người. Khu thứ ba đang được xây dựng dưới chân núi với hội trường lớn có 25.000 chỗ ngồi. Học viện còn có một bệnh viện lớn khám bệnh miễn phí và một công viên rộng hàng trăm ha. Hệ thống xe buýt miễn phí của Học viện nối liền các khu với tần suất 30 phút một chuyến, từ 9h sáng đến 9h tối, các điểm dừng dọc đường tại bệnh viện, thị trấn, chợ... rất thuận tiện nên người dân trong vùng cũng được hưởng lợi từ dịch vụ này.
Học viện như một xã hội thu nhỏ, với đầy đủ các công việc bình thường, các bộ phận dịch vụ, có cửa hàng tạp hóa, hiệu thuốc, bảo tàng, bến xe, công viên, hồ nước, ngân hàng... Có cả một điểm truy cập internet miễn phí cùng dịch vụ điện thoại giá rẻ. Hầu như ngày nào tôi và Hùng cũng gọi điện về Việt Nam, “buôn dưa lê” khá nhiều, nhưng chưa lần nào thanh toán quá 90 rupee (khoảng 45.000 đồng) cho cả hai người. Còn nếu gọi nội địa Ấn Độ thì không chỉ trong Học viện mà cả ở sân bay, bến xe hay nhà dân - họ đều không lấy tiền. Tôi và Hùng được bố trí ở “khu nhà Hài hòa” (Harmony House) trông giống một chung cư xanh giữa rừng cây hoa lá. Dọc con đường dài trải nhựa rộng rãi dẫn vào nhà là hai hàng cổ thụ, một bên hoàng lan, một bên ngọc lan, khiến ai ở đây quần áo đầu tóc suốt ngày thoang thoảng hương hoa.
Khu nhà bếp liên hợp với hệ thống phòng ăn thừa sức phục vụ cùng lúc 3.000 thực khách, tất nhiên là ăn chay, phòng nào cũng bố trí thành hai khu vực - một khu gồm các món nấu với ớt đúng truyền thống Ấn Độ, khu kia cũng là các món đó nhưng không ớt, thay vào đó người ta để hàng rổ ớt tươi trên bàn cùng các loại gia vị cho khách “lựa cơm mà gắp... ớt”. Trên núi hiếm rau tươi, chủ đạo chỉ có bắp cải và cà chua ăn sống; còn khoai tây, ngô, cà rốt, bí đỏ, đậu bắp được “luân phiên” nấu súp. Tuy nhiên họ nấu rất khéo, đủ dinh dưỡng, nên dù tôi đã “tiểu nhân phòng bị gậy” thủ theo thịt hộp nhưng cũng không dùng đến và “chịu đựng” kỳ chay 9 ngày ở Ấn Độ khá dễ dàng.
“Phong trào ăn chay” của Học viện dường như có sức lan tỏa khá lớn, vì cả vùng núi Abu rộng bao la với nhiều khu dân cư, khu du lịch, làng mạc, thị trấn, nhiều doanh trại quân đội với cả một sân bay quân sự... nhưng tuyệt đối không có “quán mặn”. Tôi đã sục sạo khắp vùng, chỉ thấy 3 quầy có bán loại thực phẩm duy nhất không phải đồ chay - đó là trứng. Người dân ở đây phần lớn rất nghèo, nhưng chẳng ai nghĩ đến chuyện săn bắn, dù chim thú đầy rẫy. Từng đàn bồ câu núi, chào mào, vẹt, cò, vạc, sơn ca, giẽ giun, chim sẻ đậu kín cành cây bên đường, làm tổ trên các mái nhà, điềm nhiên nhặt thức ăn rơi trong bếp ngay cạnh các bà nội trợ. Lũ sóc béo mượt lững thững chuyền cành hoặc nhặt quả rụng giữa chỗ đông người như bến xe, điểm du lịch. Chỉ cần thả bộ vào rừng - cửa rừng cách Học viện 10 phút đi bộ, rất dễ “chạm trán” chồn cáo, khỉ vượn hay lợn rừng. Tôi bị lãnh đạo Học viện nhắc nhở nghiêm khắc “tội” vào rừng một mình, vì vùng này nhiều gấu, rắn lớn và có cả hổ; người ta cho tôi xem ảnh những con rắn dài đến 3 m từng bò vào nhà dân và ảnh mấy nạn nhân mới bị thương nặng do gấu vồ.
“Phong trào ăn chay” của Học viện dường như có sức lan tỏa khá lớn, vì cả vùng núi Abu rộng bao la với nhiều khu dân cư, khu du lịch, làng mạc, thị trấn, nhiều doanh trại quân đội với cả một sân bay quân sự... nhưng tuyệt đối không có “quán mặn”. Tôi đã sục sạo khắp vùng, chỉ thấy 3 quầy có bán loại thực phẩm duy nhất không phải đồ chay - đó là trứng. Người dân ở đây phần lớn rất nghèo, nhưng chẳng ai nghĩ đến chuyện săn bắn, dù chim thú đầy rẫy. Từng đàn bồ câu núi, chào mào, vẹt, cò, vạc, sơn ca, giẽ giun, chim sẻ đậu kín cành cây bên đường, làm tổ trên các mái nhà, điềm nhiên nhặt thức ăn rơi trong bếp ngay cạnh các bà nội trợ. Lũ sóc béo mượt lững thững chuyền cành hoặc nhặt quả rụng giữa chỗ đông người như bến xe, điểm du lịch. Chỉ cần thả bộ vào rừng - cửa rừng cách Học viện 10 phút đi bộ, rất dễ “chạm trán” chồn cáo, khỉ vượn hay lợn rừng. Tôi bị lãnh đạo Học viện nhắc nhở nghiêm khắc “tội” vào rừng một mình, vì vùng này nhiều gấu, rắn lớn và có cả hổ; người ta cho tôi xem ảnh những con rắn dài đến 3 m từng bò vào nhà dân và ảnh mấy nạn nhân mới bị thương nặng do gấu vồ.
Vùng núi Abu có những ngôi đền cổ tuyệt đẹp, thu hút hàng triệu du khách mỗi năm. Khách muốn vào đền đều bị cảnh sát và các nhân viên bảo vệ khám xét kỹ lưỡng và phải để máy ảnh, điện thoại ngoài cửa cùng tất cả những thứ có xuất xứ từ da động vật như giày dép, thắt lưng... Như vậy đủ biết dân ở đây “chay tịnh” đến mức nào. Trong chợ, có nhiều quán bán các loại bánh rán, nhìn khá hấp dẫn, song chỉ là bột trộn gia vị cùng ớt xanh xắt khúc. Một cái bánh to hơn hai ngón tay mà lổn nhổn cả chục miếng ớt, có chiếc bánh nặn hình “đùi gà” chiên vàng, trong ruột nguyên trái ớt dài gần gang tay, cay trào nước mắt. Vào thị trấn hoặc vào làng, đều có thể mua được nhiều loại khăn truyền thống dệt tay sặc sỡ và nhiều loại quả khô chỉ có ở địa phương như trái lê dại hay trái vả, cùng các đồ mỹ nghệ chế tác khá tinh xảo. Có điều người Ấn nói thách gấp đôi gấp ba và rất khéo thuyết phục khách, họ sẵn sàng mở tung các kiện hàng cho khách xem và luôn vui vẻ lịch sự dù chỉ bán được một chiếc khăn nhỏ, thậm chí khách không mua. Sau vài cuộc tranh luận về giá cả đến toát mồ hôi vì thứ tiếng Anh “giả cầy” của cả chủ lẫn khách nên chủ yếu phải khua chân múa tay, chúng tôi quyết định về mấy cửa hiệu thuộc Học viện, nơi hàng hóa ít hơn nhưng bán đúng giá.
Rất nhiều người dân trong các làng lân cận được Học viện Brahma Kumaris thuê làm những công việc phổ thông. Các chàng trai, cô gái và cả người già trong trang phục truyền thống Ấn Độ hàng ngày chăm sóc vườn cây, quét lá rụng, lau dọn nhà cửa, vác đồ cho khách... Họ làm việc cần mẫn, vui vẻ chẳng cần ai đôn đốc, và cũng như các nhân viên của Học viện, luôn nở nụ cười thân thiện, sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Thỉnh thoảng, một bài hát dẫn thiền nhẹ nhàng lại được phát qua hệ thống loa truyền thanh gắn ở tất cả các điểm trong Học viện. Tất cả mọi người đều tạm ngừng công việc đang làm, dành ít phút tĩnh lặng tập trung “thanh lọc” tâm trí - một “biện pháp” nhắc nhở tâm trí đừng quên bình an. Dường như đó là minh chứng dễ thấy nhất cho triết lý sống theo phong cách ở đây, rằng bạn có thể làm tất cả mọi việc cần làm trong cuộc sống mà không cần nóng vội, tức giận hay phật lòng, dù với bất cứ lý do gì. Và bạn sẽ có được sự bình an trong tâm trí, nếu đó là điều bạn thực sự mong muốn đạt được trong cuộc đời vốn thường xuyên sóng gió.
Bài và ảnh: Nguyễn Hồng Việt
BÀI 3: Bình an cho tâm trí
![]() |
Đi bộ tĩnh lặng giữa thiên nhiên - một bài học để tâm trí bình an
|
Vậy tại sao phải học cách để đạt tới sự bình an? Tất nhiên chẳng ai muốn bất an, song nhiều người vẫn cho rằng không phải lúc nào bình an cũng là tốt. Cụ thể là dường như ta sẽ khó đạt hiệu quả cao nhất trong công việc cũng như trong cuộc sống nói chung, nếu không thật khẩn trương, toàn tâm toàn ý, vận động và nỗ lực không ngừng. Như thế thì cái vụ “đang làm lại ngừng ít phút để tĩnh tâm” có vẻ không thích hợp... Nhưng theo Dadi Janki, Trợ lý giám đốc điều hành Học viện Brahma Kumaris: “Trước áp lực công việc hoặc những biến cố trong đời người, thường chúng ta có hai sự lựa chọn. Một là lo lắng. Hai là tự tạo những suy nghĩ bình an, giúp mình cảm thấy bình tĩnh để xử lý tốt nhất các tình huống và có cái nhìn bao dung, đồng thời giúp người khác tạo ra một không khí dễ chịu xung quanh. Phương pháp này giúp mọi người có thể phục hồi và tích lũy trong mình một hình ảnh tích cực về bản thân; giúp ta sống với lòng yêu thương và tôn trọng người khác. Đây là điều kiện cho cuộc sống bình an vĩnh cửu”.
Còn sự tĩnh lặng liên quan gì đến bình an? Trish Summerfield - Giám đốc Chương trình giáo dục các giá trị sống tại Việt Nam - người gửi thư mời tôi sang Ấn Độ lần này (Bạn Đường có bài về chị trên số Xuân 2011) từng chia sẻ: “Sự giận dữ phá hỏng vẻ đẹp tâm hồn, trong khi sự tĩnh lặng giúp tái tạo vẻ đẹp ấy”. Còn Enrique Simo, tác giả cuốn sách “Quà tặng của Bình yên”, cũng là một thành viên của Học viện Brahma Kumaris, thì lý giải: “Nhiều khi có ý định tốt giải quyết một rắc rối nhưng bạn lại trở thành một phần của rắc rối đó. Hãy chấp nhận rắc rối, trước tiên nên giữ yên lặng và thanh thản. Không nhất thiết phải hiểu nguyên nhân mà hãy tìm giải pháp. Hãy quan sát và suy ngẫm trong tĩnh lặng, sau đó mới đưa ra quyết định”. Enrique kết luận rằng sự tĩnh lặng giúp trái tim bình tĩnh hơn. Đó là niềm an ủi làm dịu đi những vết thương trong tâm hồn. Nó giúp củng cố tinh thần và đưa ta đến một thế giới không có âm thanh, nơi bình an ngự trị. Hãy học cách tạo ra sự tĩnh lặng trong tâm trí, rồi bình an sẽ tràn ngập tâm hồn ta.
Những triết lý này được hiện thực hóa ở Học viện Brahma Kumaris và cả vùng núi Abu, nơi mọi người đều ít nói, luôn mỉm cười nhưng không cười thành tiếng. Mỗi khách đến Học viện được tặng một chiếc túi khoác vai in dòng chữ “Om shanti”, đây cũng là lời chào của mọi người khi gặp nhau hàng ngày (tiếng Ấn, Om là tôi - theo nghĩa tâm hồn tôi, còn shanti là bình an). Dòng chữ này xuất hiện khắp nơi, trên tấm huy hiệu đeo ngực áo, trên đầu xe buýt... Đó còn là câu “thần chú” hiệu nghiệm của tôi mỗi khi lang thang vào làng hoặc thị trấn, muốn ghé nhà dân xin hớp nước hay nhờ bác lái máy kéo cho quá giang một đoạn, cứ “Om shanti” là các “khổ chủ” cười toe đồng ý ngay...
Không nói thì ai cũng biết, phương pháp tĩnh tâm tốt nhất là học thiền. Theo chương trình, mỗi ngày chúng tôi có đến vài lần thiền. Thoạt nghe, tôi cũng phát hoảng vì thói quen cá nhân cũng như nghề báo đều “chẳng liên quan” gì đến việc ngồi xếp bằng nhắm mắt. Nhưng cách thiền ở đây khác hẳn, ai ngồi thế nào thoải mái, miễn là trật tự. Học viện luôn bố trí người dẫn thiền bằng tiếng Anh hoặc tiếng Ấn; ai không rành hai ngôn ngữ ấy thì có thể chọn tai nghe đã đánh dấu cẩn thận để nghe dẫn thiền bằng tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng la-tinh... Tất nhiên là chẳng thể đủ người dịch cho 273 khách đến từ 57 quốc gia. Nhưng những người không giỏi ngoại ngữ như tôi, dù chỉ hiểu lõm bõm, vẫn dễ dàng cảm nhận sự dịu dàng, sâu lắng của lời dẫn thiền. Những lời đó cứ nhẹ nhàng đi vào lòng người, như kêu gọi một tiếng nói từ bên trong sâu thẳm tâm hồn thức giấc, để hai tiếng nói hòa nhập, đồng điệu, khiến tâm trí dần nhẹ nhõm như được thanh lọc.
Bên cạnh những giờ thiền trong hội trường, còn có những buổi hướng dẫn thiền khi đi bộ trong đồng cỏ, thiền trên núi ngắm hoàng hôn; những người đạt đến “trình cao” có thể thiền mọi nơi mọi lúc, dù đang thức hay ngủ, dù đang ăn uống hay lái xe. Bệnh nghề nghiệp khiến tôi thắc mắc ngay là như thế liệu có an toàn không? Trish Summerfield đã giải thích khá hợp lý: “Nhiều vụ tai nạn xảy ra do lái xe quá chăm chú nhìn vào một điểm, trong khi nguy hiểm đến từ hướng khác. Thiền nhẹ nhàng khi lái xe nghĩa là tập cách giải phóng tâm trí để không quá bận tâm vào một cái gì cụ thể, mà nhìn đa điểm, giúp cùng lúc bao quát được cả bức tranh giao thông xung quanh. Trong cuộc sống nói chung, cách nhìn đa điểm giúp chúng ta đi đến những quyết định sáng suốt”. Tôi đã thử nghiệm và thấy chị nói đúng.
Bài tập thiền “vỡ lòng” khá đơn giản: Hướng sự chú ý vào bên trong, hình dung mình đang ngồi thư thái trong căn phòng tâm trí và quan sát thế giới xung quanh qua hai “cửa sổ” là đôi mắt. Cảm giác an toàn sẽ đến, vì tất cả mọi việc đều diễn ra “bên ngoài”, dường như chẳng liên quan gì đến ta bởi ta đang “trong phòng”, thoái mái quan sát cả trong lẫn ngoài. Bên ngoài là một sân khấu, mỗi người sẽ đóng một vai nào đó. Quan sát kỹ sẽ giúp bạn quyết định vào vai khi đã sẵn sàng, không bị thụ động...
Bài học tiếp theo là tập suy nghĩ tích cực về bản thân và đồng loại. Một trong những rắc rối lớn nhất và phổ biến nhất là chúng ta thường không yêu thương bản thân mình lắm, trong khi lại muốn người khác yêu thương mình. “Không yêu thương mình lắm”, cụ thể như chúng ta thường tức giận khi mọi chuyện diễn ra không đúng ý mình. Mike George đã phân tích trong cuốn “Từ giận dữ đến bình an” (NXB tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh - 2009): “Khi tức giận, chúng ta phạm phải ít nhất là 3 điều tồi tệ. Thứ nhất, chúng ta đã mất khả năng kiểm soát bản thân - vì đã để cho cảm xúc chi phối lấy mình. Thứ hai, chúng ta hoàn toàn mất lý trí khi để cho cảm xúc giết chết khả năng suy nghĩ hợp lý, tích cực. Thứ ba, chúng ta đang làm cái điều mà nắm chắc sẽ thất bại, đó là cố gắng thay đổi quá khứ và thay đổi người khác”. Tác giả này có một liên hệ dí dỏm rằng, dù mua hàng ở siêu thị hay chọn lựa qua thông tin trên những tờ quảng cáo, mọi người lúc nào cũng tỏ ra cân nhắc và sáng suốt trong việc lựa chọn những hàng hóa, dịch vụ tốt nhất. Nhưng rất nhiều người lại không biết rằng bản thân họ cũng phải lựa chọn và đôi khi cần phải thay đổi niềm tin, cảm xúc của mình.
Khi suy nghĩ về bản thân hoặc người khác, chúng ta thường nhận xét mình (hoặc người đó) giàu hay nghèo, béo hay gầy, quần áo thế nào, nói năng ra sao...; nhưng lại không chú ý mấy đến những phẩm chất tốt đẹp mà ít nhiều ai cũng có. Chủ động tìm kiếm phẩm chất - đó là cách tư duy tích cực. Lời khuyên của Học viện Brahma Kumaris dành cho “lớp vỡ lòng” chúng tôi là tập dùng “TÔI MUỐN” chứ không dùng “TÔI KHÔNG MUỐN” trong cách nghĩ hàng ngày. Chẳng hạn, thay vì “Tôi không muốn cộng tác với người đó vì anh ta làm tôi bực mình”, hãy nghĩ rằng “Tôi muốn tìm hiểu những thế mạnh của anh ta để cộng tác tốt hơn”. Ở cấp độ tâm hồn, mọi người đều bình đẳng. Hãy nhìn vào trán người đối diện, nơi người Ấn Độ thường dán hoặc tô “nốt ruồi” mà họ gọi là con mắt thứ ba, và tập trung suy nghĩ đó là trung tâm chỉ huy, là đốm sáng soi rọi ý thức mỗi người, ta sẽ vượt qua mọi khác biệt về sắc tộc, màu da, quan điểm... và chỉ còn thấy một tâm hồn. Đó là bước đầu tiên tiến đến sự đồng điệu, hóa giải dần các mâu thuẫn, rào cản trên hành trình hướng thiện để tìm kiếm sự bình an.
Xen giữa các hội thảo, còn có nhiều buổi dã ngoại, nơi chúng tôi chứng kiến những người lớn tuổi bỗng trở lại làm trẻ thơ, say sưa nhảy múa hoặc chơi cầu trượt, đu quay, xích đu, ném bóng vào xô... Thoạt đầu, tôi thấy buồn cười với “mấy trò trẻ con”, rồi chạnh lòng nghĩ vẩn vơ rằng không hiểu cuộc đời đày đọa con người ta đến mức nào, mà khiến những người đã sống quá nửa đời, thậm chí ngoại 70, phải vượt hàng vạn kilômét tới đây - nơi họ có thể thực sự thư giãn trong khung cảnh giống như một trại hè thiếu nhi dành cho người lớn. Thật đáng suy ngẫm, vì trong “đời thường”, phần lớn họ là những người thành đạt, có uy tín, một số giàu có và nổi tiếng. Hình như sau nhiều năm mải mê tranh đấu trong đời, cuối cùng họ tìm về với những phẩm chất nguyên thủy, tính cách trẻ thơ, với những điều giản dị và tốt đẹp theo triết lý “nhân tri sơ tính bản thiện”. Những ngày ở Học viện Brahma Kumaris, tôi đã thấy mọi người quanh mình ít nhiều đều thể hiện và chia sẻ nỗ lực hướng tới cái đích mà Mike George đã đúc kết trong cuốn sách của ông: “Bình an là trạng thái sống – Yêu thương là hành động – Sự thật dẫn đường – Hạnh phúc là phần thưởng”.
Tất nhiên, vài ngày “ăn chay, thân chay, tâm chay, ý chay” ở Ấn Độ có thể chỉ là những bước đầu tiên của một hành trình dài. Một trong những câu nói bất hủ của người anh hùng dân tộc Ấn Độ, Mahatma Gandhi, là: “Bạn phải thay đổi bản thân mình trước nếu bạn mong muốn nhìn thấy sự đổi thay trên thế giới này”.
Bài và ảnh: Nguyễn Hồng Việt
Bài 4: “Good morning Mr. Fre”
![]() |
Frederic Labarthe và tác giả tại một khu chợ Ấn Đô
|
Frederic lý giải, mặc kệ bên ngoài đang là thời điểm nào trong ngày, anh muốn giữ tâm trí luôn là buổi sáng tươi mới. Đây cũng là một ví dụ điển hình theo triết lý sống của những người thuộc Học viện Brahma Kumaris: Nếu bạn là một cây xoài, việc tốt nhất bạn có thể làm là cho ra những trái xoài ngon nhất, đừng cố gắng trở thành cây chuối, dù mọi người xung quanh đều thích chuối. Anh hài hước song rất chân thành chia sẻ: “Chúng ta sống phần lớn đời mình theo luật chơi của người khác, nên phải tận dụng từng cơ hội nhỏ nhất để tự làm cho mình cảm thấy được tự do”.
“Mr. Good morning” cùng vợ là Mona đã định cư tại Ấn Độ từ hơn một năm nay trong căn nhà nhỏ gần Học viện mà anh gọi là “cái am thiền của tôi”. Anh tình nguyện làm tài xế, đưa Hùng, Vân và tôi đi khắp vùng trên chiếc ôtô Suzuki 0.8 nhỏ xíu nhưng leo dốc rất khỏe. Anh vỗ vai tôi, cười tươi hết cỡ: “Xe của Mona đấy. Theo nghĩa nào đó, tôi cũng là người vô sản như Việt thôi”.
Một trong những bài viết ngắn của “Mr. Fre” được nhiều bạn trẻ Việt Nam yêu thích có nhan đề là “Ngắm bắn mặt trăng”. Trong đó, anh liên hệ cuộc đời qua bối cảnh như khi bạn muốn sang đường tại một ngã tư không đèn tín hiệu giao thông ở Hà Nội, dòng xe cuồn cuộn trước mặt. Chỉ có 3 cách: Một là bỏ cuộc, quay về nhà. Hai là phân tích từng chiếc xe một để cố đoán xem nó chạy thế nào, nhưng xe quá đông và mỗi chiếc chạy một kiểu nên bạn sẽ phải đứng ngập ngừng mãi. Ba là lựa theo dòng xe, có khi phải dừng lại cho một chiếc xe qua rồi “tăng tốc” thật nhanh, có khi phải đi theo dòng ít bước rồi mới sang đường tiếp... Bạn thường chọn cách thứ ba này trong cuộc đời, đồng nghĩa với việc bạn phải luyện tập. Vậy thì hãy luyện tập theo cách một cung thủ đời xưa được thầy dạy ngắm bắn mặt trăng. Nhiều người bảo như vậy thật điên, nhưng cung thủ ngày nào cũng tập bắn như thầy bảo. Hiển nhiên anh ta không bao giờ bắn đến mặt trăng, song rốt cuộc anh đã trở thành cung thủ giỏi nhất nước.
“Mr. Good morning” kết luận: “Hãy luôn có những mục đích thú vị nhất, tuyệt vời nhất mà bạn có thể tưởng tượng ra được. Rồi bắt đầu nhúc nhích nào! Có thể bạn không đạt được mục đích, nhưng dù gì nó sẽ làm cho bạn không ở nguyên một chỗ rồi. Bạn đã tiến lên, đã vượt qua điều gì đó. Có thể bạn còn nhận được những điều tuyệt vời quá sức tưởng tượng thì sao?!”.
Tôi lưu ý anh rằng đúng là đại đa số mọi người vẫn thường “qua đường” và “phấn đấu” như thế thật, song các nguy cơ luôn thường trực, riêng ở Việt Nam mỗi ngày hàng trăm người phải bỏ cuộc tạm thời hoặc vĩnh viễn vì tai nạn đó thôi? Chúng tôi chia sẻ những điều này khi tài xế Frederic luôn phải thận trọng, đôi lúc dò dẫm trên con đường núi nhỏ hẹp mà các xe ngược chiều vẫn phóng vun vút, thỉnh thoảng một đàn bò đủng đỉnh giữa đường hoặc nằm ườn ngay chỗ ngoặt. Và anh đồng ý ngay: “Tôi từng mất rất nhiều thời gian để thích nghi với giao thông Việt Nam, nhưng tôi còn kinh hoàng hơn bởi giao thông Ấn Độ. Ở vùng núi Abu này chẳng ai chịu đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy, phần lớn những người lái xe có động cơ đều phóng ẩu kinh khủng, thú rừng và thú nuôi lúc nào cũng có thể thình lình nhảy ra trước đầu xe. Nhiều trường hợp không thể tránh được tai nạn”. Nhưng anh vẫn “ngoan cố” rằng mọi chuyện đều có thể được giải quyết khi ta suy nghĩ và hành động tích cực. Tai nạn chắc chắn sẽ giảm đáng kể nếu mọi người cùng tự giác tuân thủ pháp luật - đó là điều đương nhiên. Còn những “tai nạn” theo nghĩa bóng cũng luôn có cách giải quyết, vì “không có gì là rắc rối cả, chỉ có con người là rắc rối thôi”.
Một trong những tình huống phổ biến là khi gặp việc gì đó hoặc ai đó, ta nghĩ rằng cần làm điều này, song trái tim lại cảm thấy nên làm điều khác và ta lại muốn làm điều hoàn toàn khác nữa. Vậy phải làm sao? “Mr. Fre” đặt một tay lên ngực: “Hãy lắng nghe thông điệp từ trái tim mình! Điều này người Việt Nam rất giỏi – ví dụ như khi mới gặp nhau, các bạn thường trông mặt mà bắt hình dong, và những cảm nhận ban đầu ấy thường khá chính xác. Nhưng cảm xúc cũng dễ đánh lừa bạn. Để trở nên mạnh mẽ, cần học cách thống nhất 3 phần “tôi nghĩ rằng - tôi cảm thấy - tôi muốn” theo một hướng, muốn vậy bạn phải thực sự hiểu bản thân mình.
Theo Frederic, hầu hết chúng ta gắng sức để trở thành người khác, cụ thể là ta thường đặt mục tiêu trong cuộc sống theo những gì mà người khác cũng đặt (như địa vị, tiền bạc, xe cộ, nhà cửa, học vấn...). Những thứ ấy luôn cần thiết ở mức độ nào đó, nhưng điều bạn thực sự mong muốn là gì? Rất nhiều người tốt nghiệp đại học ở tuổi 20 và bắt đầu miệt mài leo lên các bậc thang địa vị, danh vọng. Sau 20 -30 năm, khi đã lên đến nấc thang khá cao theo cách đánh giá của xã hội, họ chợt dừng lại nhìn quanh và tự hỏi: chẳng lẽ mình vất vả bấy lâu vì những thứ này sao? Nỗ lực leo thang rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn là cái thang đó bạn lựa chọn đặt vào bức tường nào? Hãy tự hỏi bức tường bạn đang dựa thang có đúng là thứ bạn muốn? Trong cuộc sống ta thường học mỗi thứ một chút theo yêu cầu trước mắt. Điều này giống như ra chợ mua các bộ phận (cành, lá, hoa, gốc...) về ghép thành cây, cái cây đó chỉ tồn tại một thời gian ngắn. Sao bạn không chọn một hạt giống và chăm bón? Cây sẽ mọc lên.
Frederic kể, trước kia vợ chồng anh thường xuyên cãi nhau, xung đột gay gắt do bất đồng quan điểm, bắt đầu từ những chuyện rất nhỏ. Từ khi anh rủ Mona học cách tư duy tích cực, họ đã trở thành “những người bạn tốt”. Tôi tếu một chút rằng anh thật giỏi khi biết cách chỉ huy vợ, một điều không tưởng đối với đa số cánh đàn ông(!) Anh lắc đầu với nụ cười hồn hậu: “Tôi không cố gắng thay đổi người khác, điều đó chỉ mang lại rắc rối. Thật ngớ ngẩn khi nghe được điều hay mà ta chỉ muốn vận dụng cho người khác, trong khi không chịu tiến hành trên bản thân. Ở Ấn Độ người ta kể câu chuyện về một bà mẹ dẫn con gái đến gặp Mahatma Gandhi, nhờ ông khuyên cháu không nên ăn quá nhiều đường. Gandhi hẹn một tuần sau quay lại rồi mới khuyên, và cô bé vui vẻ vâng lời. Bà mẹ ngạc nhiên: Sao tuần trước ông không bảo cháu luôn? Gandhi đáp: Vì tuần trước tôi ăn quá nhiều đường, tuần vừa rồi tôi phải hạn chế ăn đường đã”... Theo dòng triết lý, Frederic tiếp tục “nâng quan điểm” rằng: “Gandhi đã giải phóng Ấn Độ khỏi thực dân Anh không phải bằng chiến tranh đổ máu mà chỉ bằng một nguyên tắc: TÔI MUỐN TỰ DO, NÊN TÔI ĐƯỢC TỰ DO. Không chống đối, nhưng bằng cách hành động như một người tự do, ông đã khiến người Anh hiểu trao trả độc lập cho Ấn Độ để đôi bên cùng có lợi, tốt hơn là tiếp tục chiếm đóng... Bạn trở thành lãnh đạo không phải vì bạn có một chức danh, mà bạn sẽ là lãnh đạo nếu mọi người lựa chọn đi theo bạn.” – anh lại cười – “Gandhi định nghĩa lãnh đạo là sự kết hợp giữa chiến thuật và nhân cách; nếu bạn buộc phải bỏ đi một thứ - hãy bỏ chiến thuật! Còn tôi thì không bao giờ có ý định lãnh đạo vợ”.
“Mr. Good morning” đưa chúng tôi thăm nhiều địa điểm thú vị trong vùng núi Abu. Trong các làng, anh có rất nhiều bạn, ai cũng thân thiện cởi mở. Khu vực này có những biệt thự cổ ẩn mình dưới tán cây rừng hoặc soi bóng từ sườn núi xuống hồ nước dập dềnh hoa súng trắng, đẹp như tranh. Có cả một hành cung, nơi ngày xưa đức vua thường đến ngự trong những chuyến đi săn, hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật, nhiều bức ảnh ghi lại cảnh sinh hoạt của Hoàng gia những năm đầu thế kỷ 20.
Tôi chỉ một bức ảnh chụp những người đi săn bên đống “chiến lợi phẩm”, hỏi trêu anh rằng tư duy tích cực trong một số trường hợp hình như cũng vô ích? Vì dù là hươu nai, bò rừng hay hổ báo thì đều bị bắn cả đấy thôi. “Mr. Fre” so vai: “Ai cũng có nghiệp phải trả mà. Nhưng tôi nghĩ cuộc đời luôn công bằng, làm việc đúng đắn rồi sẽ được đền đáp”. Anh kể câu chuyện về Brian Bacon – người sáng lập chương trình giáo dục tư duy tích cực. Brian từng làm cho hãng nước ngọt Pepsi và đã thành công nhất định. Thế rồi ở Mỹ nổ ra cuộc chiến khốc liệt giành thị phần giữa Pepsi và Cocacola. Một ngày Brian đến văn phòng và thấy một đồng nghiệp treo cổ tự sát vì phạm sai lầm chuyên môn khiến Pepsi “mất điểm”. Brian tự hỏi: Chúng ta sống vì cái gì? Thậm chí là chết vì cái gì? Vì một cái lon chưa cao đến 20 cm, với ít nước, ít đường và axit? Ông quyết định bỏ việc, lập một công ty nhỏ với những nguyên tắc của riêng mình. Lần nọ, khi đang thực hiện hợp đồng tại Úc, ông nhận được lời mời từ Bộ Quốc phòng để “nâng cấp tinh thần” cho lực lượng Hải quân phục vụ trên tàu ngầm. Brian suy nghĩ và đã từ chối vì nguyên tắc của công ty là không phục vụ những đối tượng liên quan đến chiến tranh, chết chóc. Do việc này, công ty của ông bị cắt các hợp đồng đang làm. Ít lâu sau, báo chí phanh phui một vụ scandal: vài quan chức thua bạc nên tìm cách “giải ngân” để kiếm lợi từ các hợp đồng nói trên. Rất nhiều tờ báo Úc đăng chi tiết vụ việc này trên trang nhất, với một dòng cuối bài: “Hàng chục công ty dính líu đến vụ bê bối này. Riêng công ty của ông Brian Bacon đã từ chối hợp đồng vì lý do đạo đức”. Sau đó, rất nhiều người đã tìm đến hợp tác với Brian, công ty của ông ngày càng phát triển.
Kể xong, Frederic nhìn tôi ra ý hỏi: liệu câu chuyện trên có khiến anh tin cuộc đời luôn đền đáp người làm việc tốt? Đồng tình với anh, nhưng tôi vẫn cãi rằng, cụ thể trong trường hợp này, cuộc đời đã đền đáp thông qua báo chí, vậy mà chẳng ai để ý, nên các nhà báo vẫn thường được giới thiệu theo kiểu “ngoài ra...”(!) Frederic cười vui vẻ: “Việt thật cứng đầu! Nhưng ít nhất Việt cũng nên đồng ý với tôi rằng cách nghĩ “giận dỗi” như thế thật chẳng tốt cho tâm trí!”.
Lần này thì tôi gật đầu ngay. Chúng tôi bắt tay thật chặt và tạm biệt nhau bằng lời chào ưa thích của Frederic: “Good morning!”.
“Mr. Good morning” cùng vợ là Mona đã định cư tại Ấn Độ từ hơn một năm nay trong căn nhà nhỏ gần Học viện mà anh gọi là “cái am thiền của tôi”. Anh tình nguyện làm tài xế, đưa Hùng, Vân và tôi đi khắp vùng trên chiếc ôtô Suzuki 0.8 nhỏ xíu nhưng leo dốc rất khỏe. Anh vỗ vai tôi, cười tươi hết cỡ: “Xe của Mona đấy. Theo nghĩa nào đó, tôi cũng là người vô sản như Việt thôi”.
Một trong những bài viết ngắn của “Mr. Fre” được nhiều bạn trẻ Việt Nam yêu thích có nhan đề là “Ngắm bắn mặt trăng”. Trong đó, anh liên hệ cuộc đời qua bối cảnh như khi bạn muốn sang đường tại một ngã tư không đèn tín hiệu giao thông ở Hà Nội, dòng xe cuồn cuộn trước mặt. Chỉ có 3 cách: Một là bỏ cuộc, quay về nhà. Hai là phân tích từng chiếc xe một để cố đoán xem nó chạy thế nào, nhưng xe quá đông và mỗi chiếc chạy một kiểu nên bạn sẽ phải đứng ngập ngừng mãi. Ba là lựa theo dòng xe, có khi phải dừng lại cho một chiếc xe qua rồi “tăng tốc” thật nhanh, có khi phải đi theo dòng ít bước rồi mới sang đường tiếp... Bạn thường chọn cách thứ ba này trong cuộc đời, đồng nghĩa với việc bạn phải luyện tập. Vậy thì hãy luyện tập theo cách một cung thủ đời xưa được thầy dạy ngắm bắn mặt trăng. Nhiều người bảo như vậy thật điên, nhưng cung thủ ngày nào cũng tập bắn như thầy bảo. Hiển nhiên anh ta không bao giờ bắn đến mặt trăng, song rốt cuộc anh đã trở thành cung thủ giỏi nhất nước.
“Mr. Good morning” kết luận: “Hãy luôn có những mục đích thú vị nhất, tuyệt vời nhất mà bạn có thể tưởng tượng ra được. Rồi bắt đầu nhúc nhích nào! Có thể bạn không đạt được mục đích, nhưng dù gì nó sẽ làm cho bạn không ở nguyên một chỗ rồi. Bạn đã tiến lên, đã vượt qua điều gì đó. Có thể bạn còn nhận được những điều tuyệt vời quá sức tưởng tượng thì sao?!”.
Tôi lưu ý anh rằng đúng là đại đa số mọi người vẫn thường “qua đường” và “phấn đấu” như thế thật, song các nguy cơ luôn thường trực, riêng ở Việt Nam mỗi ngày hàng trăm người phải bỏ cuộc tạm thời hoặc vĩnh viễn vì tai nạn đó thôi? Chúng tôi chia sẻ những điều này khi tài xế Frederic luôn phải thận trọng, đôi lúc dò dẫm trên con đường núi nhỏ hẹp mà các xe ngược chiều vẫn phóng vun vút, thỉnh thoảng một đàn bò đủng đỉnh giữa đường hoặc nằm ườn ngay chỗ ngoặt. Và anh đồng ý ngay: “Tôi từng mất rất nhiều thời gian để thích nghi với giao thông Việt Nam, nhưng tôi còn kinh hoàng hơn bởi giao thông Ấn Độ. Ở vùng núi Abu này chẳng ai chịu đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy, phần lớn những người lái xe có động cơ đều phóng ẩu kinh khủng, thú rừng và thú nuôi lúc nào cũng có thể thình lình nhảy ra trước đầu xe. Nhiều trường hợp không thể tránh được tai nạn”. Nhưng anh vẫn “ngoan cố” rằng mọi chuyện đều có thể được giải quyết khi ta suy nghĩ và hành động tích cực. Tai nạn chắc chắn sẽ giảm đáng kể nếu mọi người cùng tự giác tuân thủ pháp luật - đó là điều đương nhiên. Còn những “tai nạn” theo nghĩa bóng cũng luôn có cách giải quyết, vì “không có gì là rắc rối cả, chỉ có con người là rắc rối thôi”.
Một trong những tình huống phổ biến là khi gặp việc gì đó hoặc ai đó, ta nghĩ rằng cần làm điều này, song trái tim lại cảm thấy nên làm điều khác và ta lại muốn làm điều hoàn toàn khác nữa. Vậy phải làm sao? “Mr. Fre” đặt một tay lên ngực: “Hãy lắng nghe thông điệp từ trái tim mình! Điều này người Việt Nam rất giỏi – ví dụ như khi mới gặp nhau, các bạn thường trông mặt mà bắt hình dong, và những cảm nhận ban đầu ấy thường khá chính xác. Nhưng cảm xúc cũng dễ đánh lừa bạn. Để trở nên mạnh mẽ, cần học cách thống nhất 3 phần “tôi nghĩ rằng - tôi cảm thấy - tôi muốn” theo một hướng, muốn vậy bạn phải thực sự hiểu bản thân mình.
Theo Frederic, hầu hết chúng ta gắng sức để trở thành người khác, cụ thể là ta thường đặt mục tiêu trong cuộc sống theo những gì mà người khác cũng đặt (như địa vị, tiền bạc, xe cộ, nhà cửa, học vấn...). Những thứ ấy luôn cần thiết ở mức độ nào đó, nhưng điều bạn thực sự mong muốn là gì? Rất nhiều người tốt nghiệp đại học ở tuổi 20 và bắt đầu miệt mài leo lên các bậc thang địa vị, danh vọng. Sau 20 -30 năm, khi đã lên đến nấc thang khá cao theo cách đánh giá của xã hội, họ chợt dừng lại nhìn quanh và tự hỏi: chẳng lẽ mình vất vả bấy lâu vì những thứ này sao? Nỗ lực leo thang rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn là cái thang đó bạn lựa chọn đặt vào bức tường nào? Hãy tự hỏi bức tường bạn đang dựa thang có đúng là thứ bạn muốn? Trong cuộc sống ta thường học mỗi thứ một chút theo yêu cầu trước mắt. Điều này giống như ra chợ mua các bộ phận (cành, lá, hoa, gốc...) về ghép thành cây, cái cây đó chỉ tồn tại một thời gian ngắn. Sao bạn không chọn một hạt giống và chăm bón? Cây sẽ mọc lên.
Frederic kể, trước kia vợ chồng anh thường xuyên cãi nhau, xung đột gay gắt do bất đồng quan điểm, bắt đầu từ những chuyện rất nhỏ. Từ khi anh rủ Mona học cách tư duy tích cực, họ đã trở thành “những người bạn tốt”. Tôi tếu một chút rằng anh thật giỏi khi biết cách chỉ huy vợ, một điều không tưởng đối với đa số cánh đàn ông(!) Anh lắc đầu với nụ cười hồn hậu: “Tôi không cố gắng thay đổi người khác, điều đó chỉ mang lại rắc rối. Thật ngớ ngẩn khi nghe được điều hay mà ta chỉ muốn vận dụng cho người khác, trong khi không chịu tiến hành trên bản thân. Ở Ấn Độ người ta kể câu chuyện về một bà mẹ dẫn con gái đến gặp Mahatma Gandhi, nhờ ông khuyên cháu không nên ăn quá nhiều đường. Gandhi hẹn một tuần sau quay lại rồi mới khuyên, và cô bé vui vẻ vâng lời. Bà mẹ ngạc nhiên: Sao tuần trước ông không bảo cháu luôn? Gandhi đáp: Vì tuần trước tôi ăn quá nhiều đường, tuần vừa rồi tôi phải hạn chế ăn đường đã”... Theo dòng triết lý, Frederic tiếp tục “nâng quan điểm” rằng: “Gandhi đã giải phóng Ấn Độ khỏi thực dân Anh không phải bằng chiến tranh đổ máu mà chỉ bằng một nguyên tắc: TÔI MUỐN TỰ DO, NÊN TÔI ĐƯỢC TỰ DO. Không chống đối, nhưng bằng cách hành động như một người tự do, ông đã khiến người Anh hiểu trao trả độc lập cho Ấn Độ để đôi bên cùng có lợi, tốt hơn là tiếp tục chiếm đóng... Bạn trở thành lãnh đạo không phải vì bạn có một chức danh, mà bạn sẽ là lãnh đạo nếu mọi người lựa chọn đi theo bạn.” – anh lại cười – “Gandhi định nghĩa lãnh đạo là sự kết hợp giữa chiến thuật và nhân cách; nếu bạn buộc phải bỏ đi một thứ - hãy bỏ chiến thuật! Còn tôi thì không bao giờ có ý định lãnh đạo vợ”.
“Mr. Good morning” đưa chúng tôi thăm nhiều địa điểm thú vị trong vùng núi Abu. Trong các làng, anh có rất nhiều bạn, ai cũng thân thiện cởi mở. Khu vực này có những biệt thự cổ ẩn mình dưới tán cây rừng hoặc soi bóng từ sườn núi xuống hồ nước dập dềnh hoa súng trắng, đẹp như tranh. Có cả một hành cung, nơi ngày xưa đức vua thường đến ngự trong những chuyến đi săn, hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật, nhiều bức ảnh ghi lại cảnh sinh hoạt của Hoàng gia những năm đầu thế kỷ 20.
Tôi chỉ một bức ảnh chụp những người đi săn bên đống “chiến lợi phẩm”, hỏi trêu anh rằng tư duy tích cực trong một số trường hợp hình như cũng vô ích? Vì dù là hươu nai, bò rừng hay hổ báo thì đều bị bắn cả đấy thôi. “Mr. Fre” so vai: “Ai cũng có nghiệp phải trả mà. Nhưng tôi nghĩ cuộc đời luôn công bằng, làm việc đúng đắn rồi sẽ được đền đáp”. Anh kể câu chuyện về Brian Bacon – người sáng lập chương trình giáo dục tư duy tích cực. Brian từng làm cho hãng nước ngọt Pepsi và đã thành công nhất định. Thế rồi ở Mỹ nổ ra cuộc chiến khốc liệt giành thị phần giữa Pepsi và Cocacola. Một ngày Brian đến văn phòng và thấy một đồng nghiệp treo cổ tự sát vì phạm sai lầm chuyên môn khiến Pepsi “mất điểm”. Brian tự hỏi: Chúng ta sống vì cái gì? Thậm chí là chết vì cái gì? Vì một cái lon chưa cao đến 20 cm, với ít nước, ít đường và axit? Ông quyết định bỏ việc, lập một công ty nhỏ với những nguyên tắc của riêng mình. Lần nọ, khi đang thực hiện hợp đồng tại Úc, ông nhận được lời mời từ Bộ Quốc phòng để “nâng cấp tinh thần” cho lực lượng Hải quân phục vụ trên tàu ngầm. Brian suy nghĩ và đã từ chối vì nguyên tắc của công ty là không phục vụ những đối tượng liên quan đến chiến tranh, chết chóc. Do việc này, công ty của ông bị cắt các hợp đồng đang làm. Ít lâu sau, báo chí phanh phui một vụ scandal: vài quan chức thua bạc nên tìm cách “giải ngân” để kiếm lợi từ các hợp đồng nói trên. Rất nhiều tờ báo Úc đăng chi tiết vụ việc này trên trang nhất, với một dòng cuối bài: “Hàng chục công ty dính líu đến vụ bê bối này. Riêng công ty của ông Brian Bacon đã từ chối hợp đồng vì lý do đạo đức”. Sau đó, rất nhiều người đã tìm đến hợp tác với Brian, công ty của ông ngày càng phát triển.
Kể xong, Frederic nhìn tôi ra ý hỏi: liệu câu chuyện trên có khiến anh tin cuộc đời luôn đền đáp người làm việc tốt? Đồng tình với anh, nhưng tôi vẫn cãi rằng, cụ thể trong trường hợp này, cuộc đời đã đền đáp thông qua báo chí, vậy mà chẳng ai để ý, nên các nhà báo vẫn thường được giới thiệu theo kiểu “ngoài ra...”(!) Frederic cười vui vẻ: “Việt thật cứng đầu! Nhưng ít nhất Việt cũng nên đồng ý với tôi rằng cách nghĩ “giận dỗi” như thế thật chẳng tốt cho tâm trí!”.
Lần này thì tôi gật đầu ngay. Chúng tôi bắt tay thật chặt và tạm biệt nhau bằng lời chào ưa thích của Frederic: “Good morning!”.
Bài và ảnh: Nguyễn Hồng Việt
BÀI 5: Ẩn sĩ ở “thiên đường” bên sườn núi
![]() |
Đôi bạn vong niên Manfred - Frederic và những người bạn Việt Nam
|
Dừng xe, anh xăng xái mở cổng cho chúng tôi vào: “Ở đây, hàng rào với cổng chỉ để ngăn thú rừng vào phá vườn thôi. Chúng ta thì không cần xin phép chủ nhân đâu”. Quả như vậy, chủ nhân đã tươi cười ra đón chúng tôi. Ông tên là Manfred Stuck, người Đức, 72 tuổi. Mái tóc trắng như cước, nước da hồng hào và nụ cười hồn hậu khiến ông càng có dáng dấp “tiên phong đạo cốt” khi ông thong thả dẫn chúng tôi qua khu vườn bậc thang tuyệt đẹp bao quanh biệt thự. Đã vào tiết cuối thu đầu đông, nhưng các loại hoa trong vườn vẫn tưng bừng khoe sắc nhờ được chăm sóc cẩn thận và khí hậu trong lành trên núi. Mỗi “bậc thang” là một mảnh vườn nhỏ được xây rất khéo, trồng riêng một loại hoa hoặc cây cảnh, cây ăn trái xen kẽ, tạo nên một khung cảnh tổng hòa, hương thơm sực nức. Những cây xoài, cây sung cổ thụ dễ đến 300 - 400 năm tuổi xanh um bên rặng tre, rặng trúc ngà cứng cáp, măng mọc chi chít, mỡ màng căng nhựa sống. Có cả những vạt rau húng, mồng tơi, khoai lang tốt bời bời bên một hồ cá được kè bằng những viên đá cuội to nhẵn bóng. Chanh và cam trĩu quả cùng giàn nho và hoa leo chấp chới những cánh bướm muôn màu. Đặc biệt, trong vườn thiết kế các chậu nhỏ đựng thức ăn vụn, nên lũ chim trời đủ loại hân hoan sà xuống líu lo, lũ sóc điềm nhiên gặm quả bên lối đi rải sỏi, chẳng mấy bận tâm đến những vị khách lạ... Manfred bảo, lũ gấu và khỉ cũng thường xuyên “ghé thăm” vườn của ông, nhất là ban đêm.
Manfred cùng 3 người bạn chung chí hướng đã góp sức, tự thiết kế khu vườn và ngôi biệt thự độc đáo, rất tiện dụng với nhiều phòng nhỏ ấm cúng, những căn gác xinh xắn áp mái cửa sổ rộng bao quát được cả vùng thiên nhiên tươi đẹp. Có một phòng thiền được trải nệm toàn bộ với những chiếc ghế tựa nhỏ do chính ông thiết kế để dựa lưng êm ái khi ngồi xếp bằng trên sàn nhà. Trong vườn, ngoài hiên bày rất nhiều bàn ghế các loại cùng nhiều xích đu gắn dưới cành cổ thụ. Hàng trăm người có thể cùng lúc thư giãn trong khu nhà vườn của Manfred giữa bầu thanh khí lâng lâng và cảnh sắc tươi đẹp ngắm mãi không chán mắt. Có đến đây mới hiểu tại sao, như trước đó Frederic đã kể, Manfred hầu như chỉ ra khỏi nhà để đi học trong Học viện Brahma Kumaris, đi làm thủ tục gia hạn visa hoặc đi thăm bạn bè trong vùng, còn phần lớn thời gian ông sống với vườn cây. Tôi nửa đùa nửa thật bảo ông rằng có lẽ tôi không đủ can đảm bước chân ra khỏi “thiên đàng” này mất, vì những thứ đang đợi tôi “ở nhà” cũng chẳng mấy hấp dẫn. Ông đáp rất chân tình với nụ cười thư thái: “Bạn có thể ở đây bao lâu tùy ý, nhà của tôi cũng là nhà của bạn”.
Manfred mời chúng tôi ra giữa vườn hoa để thưởng thức bình café tuyệt ngon ông vừa pha, thong thả tiếp tục câu chuyện: “Tôi đã định cư ở đây 12 năm, dù vẫn chưa được nhập quốc tịch. Tôi muốn sống tất cả những tháng ngày còn lại ở đây và muốn được chôn cất ở đây”. Giữ phép lịch sự, chúng tôi không dám hỏi, song rất tò mò về nguyên nhân khiến một người giàu có như ông (rõ ràng là khoản đầu tư cho khu nhà vườn phải rất lớn) lại chọn vui thú điền viên giữa chốn núi rừng xa tít này. Rất tinh ý, Manfred nhận ra ngay vẻ thắc mắc ấy, và chẳng ngại tâm sự: “Khi 25 tuổi, tôi cũng từng là một thanh niên chơi bời ngang tàng và rất cầu tiến. Song những thứ cuộc đời mang lại dần khiến tôi chán nản. Tiền bạc và địa vị thường đem đến phiền toái hơn là sự mãn nguyện. Tôi từng yêu tha thiết một phụ nữ và cố gắng làm mọi thứ để cô ấy được vui, nhưng cô ấy đã hai lần ly dị tôi. Tôi rất yêu các con, không bao giờ để chúng thiếu thốn gì, nhưng chúng suốt ngày chỉ tị nạnh ghen ghét, đánh chửi nhau... Nay thì mọi chuyện đã qua, tôi hạnh phúc ở đây và chẳng bao giờ muốn quay về Đức nữa”.
Tôi mạo muội tranh luận với ông: đành rằng đó là những chuyện đáng buồn, song “âu cũng sự thường”! Ts. Deepak Chopra, Viện sĩ Viện Hàn lâm y học Mỹ, trong một bài nói chuyện trên núi Abu đã phân tích rằng, nếu nhìn một cách bi quan về loài người thì có thể định nghĩa đó là loài duy nhất đã và đang giết hại đồng loại, có khả năng làm tuyệt chủng các loài khác và đang liều mạng với nguy cơ tuyệt chủng của chính mình, là loài duy nhất đang tàn phá hệ cân bằng sinh thái trên trái đất... Nhưng cũng luôn có một cách nhìn khác rất đẹp về loài người, với khả năng sáng tạo vô bờ bến, với sự kỳ diệu của tình yêu và đức vị tha. Liệu có nên vì những chuyện không như ý mà đoạn tuyệt hẳn với quá khứ?
Manfred cười độ lượng: “Từ lâu lắm rồi tôi không còn giận ai nữa. Tôi muốn ở lại đây vì tôi đã tìm được bờ bến bình an. Việc học tập ở Học viện Brahma Kumaris giúp tôi nhận ra bình an là trạng thái nguyên thủy trong nội tâm mỗi người. Chẳng ai cướp được sự bình an của ta, mà chỉ có thể chúng ta vô tình đánh mất nhận thức của mình về nó. Tôi đã tiêu phí phần lớn những năm tháng đời mình để chạy theo mọi thứ, cuối cùng nhận ra rằng cuộc sống con người có trước hành động. Khi ta ngừng lại và quan sát, cuộc sống sẽ giúp ta và mang tới những gì ta cần”.
Đến đây, Frederic xen vào, hãm bớt “nhiệt tình” tranh luận của tôi bằng cách kể một câu chuyện: 25 năm trước, khi lần đầu tiên lái xe tìm lên núi Abu, ông Manfred mang theo một túi táo. Thời ấy vùng này còn vô cùng hoang vu, dân cư thưa thớt và nghèo khó hơn bây giờ rất nhiều. Manfred xuống xe vào nhà dân hỏi thăm đường, khi ông quay lại thì túi táo đã biến mất. Một người đàn ông Ấn Độ lại gần, đưa cho Manfred mảnh giấy và cho biết có một nhóm thanh thiếu niên trong làng đã lấy trộm táo – ông ta cố ngăn cản nhưng không được, nên đã ghi hết tên “lũ trộm” để “nạn nhân” có thể yêu cầu bố mẹ chúng bồi thường. Manfred nhận tờ giấy, cảm ơn người đàn ông tốt bụng và lên xe. Lần sau đó, khi quay lại núi, ông ghé qua làng với túi táo to gấp mười lần trước, gọi bọn trẻ trong “danh sách đen” đến và phân phát hết táo cho chúng. Từ đó trở đi, du khách qua làng này không bị mất mát gì nữa... Rất thú vị với cách hành xử của ông, song tôi vẫn thắc mắc là liệu như thế có phải “nối giáo cho giặc”, dung túng bọn trẻ phạm lỗi không? Manfred cười nhỏ nhẹ: “Sự trừng phạt đôi khi cần thiết, nhưng chắc chắn không phải cách giáo dục hiệu quả nhất. Tôi không thích sự trừng phạt, vì trong phần lớn các trường hợp, đó là biện pháp phản tác dụng, các bạn cứ ngẫm mà xem. Thật buồn cười vì trong cuộc đời chúng ta rất hay có những hành động đối lập với mục tiêu. Ví dụ khi con trẻ đùa nghịch làm ồn, bạn muốn chúng ngừng lại – tức là muốn bình an, nhưng bạn lại quát tháo. Có thể trẻ sẽ sợ mà ngồi im, nhưng lại cảm thấy bất an vì chúng cảm nhận được thái độ không tốt của bạn. Đó có phải điều bạn muốn?”.
Tôi chia sẻ phương pháp giáo dục thú vị này của Manfred với cô giáo Vân - Phó giám đốc Trung tâm UNESCO giáo dục quốc tế, và được Vân cho biết: Đó cũng là cách ứng xử của người sáng lập Học viện Brahma Kumaris. Khi người Anh tách Pakistan ra và trao trả độc lập cho Ấn Độ, ông đã dẫn 400 người từ Pakistan sang Ấn Độ để xây dựng Học viện. Lúc này mọi thứ đều thiếu thốn. Một lần may mắn tìm được ít thực phẩm tươi, Brahma đã tự tay làm kem cho mọi người và dặn rằng khi ăn hãy nghĩ đến Thượng đế. Mọi người lần đầu được ăn kem đều háo hức, chăm chú thưởng thức, quên lời ông dặn và rất xấu hổ khi Brahma hỏi lại. Nhưng Brahma lại lấy cho mỗi người một suất kem to hơn, vẫn chỉ dặn rằng khi ăn hãy nghĩ đến Thượng đế. Lần này thì không ai quên.
Manfred kết luận: “Tư duy tích cực là phương pháp giúp chúng ta đạt đến sự bình an. Làm được như thế chúng ta sẽ gần với Thượng đế hơn”. Tôi không hào hứng với nhận định này và sự cởi mở của Manfred khiến tôi chẳng ngại nói với ông rằng mình không tin vào Thượng đế. Tôi từng đọc chuyện về Ts. Edgar Mitchel - người thứ 8 trên thế giới đặt chân lên mặt trăng. Khi nhìn qua cửa sổ tàu vũ trụ, ông thấy xung quanh chỉ là vô tận và trái đất như một quả cầu bé xíu màu xanh lơ. Trái đất chỉ là một phần nhỏ trong hệ mặt trời với vài hành tinh; hệ mặt trời của chúng ta chỉ là một phần trong thiên hà có khoảng 200 hệ mặt trời khác; thiên hà của chúng ta, thường gọi là Dải Ngân hà, chỉ là một phần lân cận của một chùm những siêu thiên hà... Vậy thì, nếu Thượng đế (theo nghĩa là người tạo nên vũ trụ) có thật đi chăng nữa, tại sao Người phải quan tâm đến chúng ta?!
Chẳng hề phật ý, Manfred vẫn giữ nụ cười thoát tục: “Không sao, nếu bạn không tin Thượng đế thì hãy tin vào chính bạn, tin rằng mỗi người chúng ta đều có khả năng tạo ra sự khác biệt để góp phần làm cuộc sống tốt đẹp hơn. Và bí quyết khiến cuộc sống luôn tươi mới, không chỉ là tạo ra những điều mới mẻ, mà còn nhìn mọi thứ với cái nhìn luôn mới. Nhà văn Pautopxki từng nói: Hạnh phúc sẽ mất đi khi người ta tự thỏa mãn về nó – Hạnh phúc chỉ bền vững khi người ta luôn vươn tới và khát vọng. Như khu vườn này, dù bạn gọi là thiên đường, sẽ vẫn nhàm chán nếu ta không ngừng làm mới nó; và quan trọng hơn là luôn cảm nhận nó bằng tâm hồn tươi mới”.
Và Manfred lại thư thái dạo bước trong khu vườn “không bao giờ cũ” của ông...
Manfred cùng 3 người bạn chung chí hướng đã góp sức, tự thiết kế khu vườn và ngôi biệt thự độc đáo, rất tiện dụng với nhiều phòng nhỏ ấm cúng, những căn gác xinh xắn áp mái cửa sổ rộng bao quát được cả vùng thiên nhiên tươi đẹp. Có một phòng thiền được trải nệm toàn bộ với những chiếc ghế tựa nhỏ do chính ông thiết kế để dựa lưng êm ái khi ngồi xếp bằng trên sàn nhà. Trong vườn, ngoài hiên bày rất nhiều bàn ghế các loại cùng nhiều xích đu gắn dưới cành cổ thụ. Hàng trăm người có thể cùng lúc thư giãn trong khu nhà vườn của Manfred giữa bầu thanh khí lâng lâng và cảnh sắc tươi đẹp ngắm mãi không chán mắt. Có đến đây mới hiểu tại sao, như trước đó Frederic đã kể, Manfred hầu như chỉ ra khỏi nhà để đi học trong Học viện Brahma Kumaris, đi làm thủ tục gia hạn visa hoặc đi thăm bạn bè trong vùng, còn phần lớn thời gian ông sống với vườn cây. Tôi nửa đùa nửa thật bảo ông rằng có lẽ tôi không đủ can đảm bước chân ra khỏi “thiên đàng” này mất, vì những thứ đang đợi tôi “ở nhà” cũng chẳng mấy hấp dẫn. Ông đáp rất chân tình với nụ cười thư thái: “Bạn có thể ở đây bao lâu tùy ý, nhà của tôi cũng là nhà của bạn”.
Manfred mời chúng tôi ra giữa vườn hoa để thưởng thức bình café tuyệt ngon ông vừa pha, thong thả tiếp tục câu chuyện: “Tôi đã định cư ở đây 12 năm, dù vẫn chưa được nhập quốc tịch. Tôi muốn sống tất cả những tháng ngày còn lại ở đây và muốn được chôn cất ở đây”. Giữ phép lịch sự, chúng tôi không dám hỏi, song rất tò mò về nguyên nhân khiến một người giàu có như ông (rõ ràng là khoản đầu tư cho khu nhà vườn phải rất lớn) lại chọn vui thú điền viên giữa chốn núi rừng xa tít này. Rất tinh ý, Manfred nhận ra ngay vẻ thắc mắc ấy, và chẳng ngại tâm sự: “Khi 25 tuổi, tôi cũng từng là một thanh niên chơi bời ngang tàng và rất cầu tiến. Song những thứ cuộc đời mang lại dần khiến tôi chán nản. Tiền bạc và địa vị thường đem đến phiền toái hơn là sự mãn nguyện. Tôi từng yêu tha thiết một phụ nữ và cố gắng làm mọi thứ để cô ấy được vui, nhưng cô ấy đã hai lần ly dị tôi. Tôi rất yêu các con, không bao giờ để chúng thiếu thốn gì, nhưng chúng suốt ngày chỉ tị nạnh ghen ghét, đánh chửi nhau... Nay thì mọi chuyện đã qua, tôi hạnh phúc ở đây và chẳng bao giờ muốn quay về Đức nữa”.
Tôi mạo muội tranh luận với ông: đành rằng đó là những chuyện đáng buồn, song “âu cũng sự thường”! Ts. Deepak Chopra, Viện sĩ Viện Hàn lâm y học Mỹ, trong một bài nói chuyện trên núi Abu đã phân tích rằng, nếu nhìn một cách bi quan về loài người thì có thể định nghĩa đó là loài duy nhất đã và đang giết hại đồng loại, có khả năng làm tuyệt chủng các loài khác và đang liều mạng với nguy cơ tuyệt chủng của chính mình, là loài duy nhất đang tàn phá hệ cân bằng sinh thái trên trái đất... Nhưng cũng luôn có một cách nhìn khác rất đẹp về loài người, với khả năng sáng tạo vô bờ bến, với sự kỳ diệu của tình yêu và đức vị tha. Liệu có nên vì những chuyện không như ý mà đoạn tuyệt hẳn với quá khứ?
Manfred cười độ lượng: “Từ lâu lắm rồi tôi không còn giận ai nữa. Tôi muốn ở lại đây vì tôi đã tìm được bờ bến bình an. Việc học tập ở Học viện Brahma Kumaris giúp tôi nhận ra bình an là trạng thái nguyên thủy trong nội tâm mỗi người. Chẳng ai cướp được sự bình an của ta, mà chỉ có thể chúng ta vô tình đánh mất nhận thức của mình về nó. Tôi đã tiêu phí phần lớn những năm tháng đời mình để chạy theo mọi thứ, cuối cùng nhận ra rằng cuộc sống con người có trước hành động. Khi ta ngừng lại và quan sát, cuộc sống sẽ giúp ta và mang tới những gì ta cần”.
Đến đây, Frederic xen vào, hãm bớt “nhiệt tình” tranh luận của tôi bằng cách kể một câu chuyện: 25 năm trước, khi lần đầu tiên lái xe tìm lên núi Abu, ông Manfred mang theo một túi táo. Thời ấy vùng này còn vô cùng hoang vu, dân cư thưa thớt và nghèo khó hơn bây giờ rất nhiều. Manfred xuống xe vào nhà dân hỏi thăm đường, khi ông quay lại thì túi táo đã biến mất. Một người đàn ông Ấn Độ lại gần, đưa cho Manfred mảnh giấy và cho biết có một nhóm thanh thiếu niên trong làng đã lấy trộm táo – ông ta cố ngăn cản nhưng không được, nên đã ghi hết tên “lũ trộm” để “nạn nhân” có thể yêu cầu bố mẹ chúng bồi thường. Manfred nhận tờ giấy, cảm ơn người đàn ông tốt bụng và lên xe. Lần sau đó, khi quay lại núi, ông ghé qua làng với túi táo to gấp mười lần trước, gọi bọn trẻ trong “danh sách đen” đến và phân phát hết táo cho chúng. Từ đó trở đi, du khách qua làng này không bị mất mát gì nữa... Rất thú vị với cách hành xử của ông, song tôi vẫn thắc mắc là liệu như thế có phải “nối giáo cho giặc”, dung túng bọn trẻ phạm lỗi không? Manfred cười nhỏ nhẹ: “Sự trừng phạt đôi khi cần thiết, nhưng chắc chắn không phải cách giáo dục hiệu quả nhất. Tôi không thích sự trừng phạt, vì trong phần lớn các trường hợp, đó là biện pháp phản tác dụng, các bạn cứ ngẫm mà xem. Thật buồn cười vì trong cuộc đời chúng ta rất hay có những hành động đối lập với mục tiêu. Ví dụ khi con trẻ đùa nghịch làm ồn, bạn muốn chúng ngừng lại – tức là muốn bình an, nhưng bạn lại quát tháo. Có thể trẻ sẽ sợ mà ngồi im, nhưng lại cảm thấy bất an vì chúng cảm nhận được thái độ không tốt của bạn. Đó có phải điều bạn muốn?”.
Tôi chia sẻ phương pháp giáo dục thú vị này của Manfred với cô giáo Vân - Phó giám đốc Trung tâm UNESCO giáo dục quốc tế, và được Vân cho biết: Đó cũng là cách ứng xử của người sáng lập Học viện Brahma Kumaris. Khi người Anh tách Pakistan ra và trao trả độc lập cho Ấn Độ, ông đã dẫn 400 người từ Pakistan sang Ấn Độ để xây dựng Học viện. Lúc này mọi thứ đều thiếu thốn. Một lần may mắn tìm được ít thực phẩm tươi, Brahma đã tự tay làm kem cho mọi người và dặn rằng khi ăn hãy nghĩ đến Thượng đế. Mọi người lần đầu được ăn kem đều háo hức, chăm chú thưởng thức, quên lời ông dặn và rất xấu hổ khi Brahma hỏi lại. Nhưng Brahma lại lấy cho mỗi người một suất kem to hơn, vẫn chỉ dặn rằng khi ăn hãy nghĩ đến Thượng đế. Lần này thì không ai quên.
Manfred kết luận: “Tư duy tích cực là phương pháp giúp chúng ta đạt đến sự bình an. Làm được như thế chúng ta sẽ gần với Thượng đế hơn”. Tôi không hào hứng với nhận định này và sự cởi mở của Manfred khiến tôi chẳng ngại nói với ông rằng mình không tin vào Thượng đế. Tôi từng đọc chuyện về Ts. Edgar Mitchel - người thứ 8 trên thế giới đặt chân lên mặt trăng. Khi nhìn qua cửa sổ tàu vũ trụ, ông thấy xung quanh chỉ là vô tận và trái đất như một quả cầu bé xíu màu xanh lơ. Trái đất chỉ là một phần nhỏ trong hệ mặt trời với vài hành tinh; hệ mặt trời của chúng ta chỉ là một phần trong thiên hà có khoảng 200 hệ mặt trời khác; thiên hà của chúng ta, thường gọi là Dải Ngân hà, chỉ là một phần lân cận của một chùm những siêu thiên hà... Vậy thì, nếu Thượng đế (theo nghĩa là người tạo nên vũ trụ) có thật đi chăng nữa, tại sao Người phải quan tâm đến chúng ta?!
Chẳng hề phật ý, Manfred vẫn giữ nụ cười thoát tục: “Không sao, nếu bạn không tin Thượng đế thì hãy tin vào chính bạn, tin rằng mỗi người chúng ta đều có khả năng tạo ra sự khác biệt để góp phần làm cuộc sống tốt đẹp hơn. Và bí quyết khiến cuộc sống luôn tươi mới, không chỉ là tạo ra những điều mới mẻ, mà còn nhìn mọi thứ với cái nhìn luôn mới. Nhà văn Pautopxki từng nói: Hạnh phúc sẽ mất đi khi người ta tự thỏa mãn về nó – Hạnh phúc chỉ bền vững khi người ta luôn vươn tới và khát vọng. Như khu vườn này, dù bạn gọi là thiên đường, sẽ vẫn nhàm chán nếu ta không ngừng làm mới nó; và quan trọng hơn là luôn cảm nhận nó bằng tâm hồn tươi mới”.
Và Manfred lại thư thái dạo bước trong khu vườn “không bao giờ cũ” của ông...
Bài và ảnh: Nguyễn Hồng Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét