CHỮA BỆNH, DƯỠNG SINH BẰNG CHẾ
Trong
n
Macrobiotics và lối sống thuận theo quy luật vũ trụ.
ĐỘ ĂN UỐNG PHÙ HỢP VỚI
TỰ NHIÊN
Lương Y VÕ HÀ

ăm mươi năm qua
số bệnh nhân nhiểm bệnh và tử vong vì ung thư
đã
không ngừng gia tăng. Hiện nay
theo báo cáo của tổ chức Y Tế Thế Giới, mỗi năm có thêm khoảng 10 triệu người mới phát bệnh ung thư và khoảng 6 triệu
người chết do ung thư. Tại Việt nam, hàng năm có khoảng 100 đến 150 ngàn
người mới mắc bệnh ung thư và khoảng 70 ngàn người chết vì ung thư. Trong khi
những tiến bộ khoa học có vẽ như bất lực trong việc chận đứng ung thư thì
thỉnh thoảng người ta vẫn ghi nhận được thông tin những bệnh nhân ung thư khỏi bệnh
hoàn toàn nhờ những liệu pháp cổ truyền. Phải
chăng đây chỉ là cá biệt? Bài viết sau đây sẽ giải thích về những nguyên lý và giá trị thực tiển của Macrobiotics, một phương pháp chữa
bệnh bằng chế độ ăn uống
phù hợp với tự nhiên cùng với những so sánh,
đối chiếu với một số
nghiên cứu khoa học và một số tập quán ăn uống có giá trị dưỡng sinh
cao.
Vào tháng 08-1982 ở nước Mỹ có một trường hợp bệnh ung thư di
c
ăn được chữa khỏi
hoàn toàn đã được nhiều tờ báo lớn lúc bấy giờ như Life, Paris Match
đăng tải gây được sự chú ý của nhiều người. Bác sĩ Anthonny Sattilaro
là giám đốc một bệnh viện lớn ở Philadelphia. Ông đã bị ung thư di căn đến nhiều bộ phận trên cơ
thể, đã trải qua 3 lần giải phẩu. Ông đã hoàn toàn tuyệt vọng. Sau
đó ông đã được giới
thiệu phương pháp điều trị bằng chế độ ăn uống đặc biệt theo Giáo Sư Oshawa dưới
sự hướng dẫn trực tiếp của GS bác sĩ Kichio Kushi. Bảy tháng sau, tất cả các xét
nghiệm cần thiết được thực hiện đã chứng tỏ ông hoàn
toàn khỏi bệnh*. Chữa bệnh ung thư không dùng thuốc như trường hợp BS
Anthony Sattilaro không phải là duy nhất. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho
phóng viên Sabine de la Brosse của báo Paris Match, bác sĩ Kushi cho biết:
- Hàng n
ăm
tôi tiếp nhận khoản 3000 bệnh nhân. Phân nữa trong số đó là bệnh ung thư. Có đến 40% bệnh nhân ung thư đã
đến thời kỳ chót. Khi không
còn chút hy vọng sống sót họ mới tìm đến tôi. Tôi có thể nói phân nữa số bệnh
nhân “chờ chết” ấy hiện nay đã bình phục hẳn. Họ
đã
mạnh khoẻ và đã trở lại cuộc sống bình thường.
Phóng viên : Vậy còn số phân nữa kia thì sao?
BS Kushi : Số người ấy không theo
đúng phương pháp mà tôi chỉ
dẫn cho họ. Họ ăn uống sai,
không kiêng kỵ được. Họ ăn uống trái phép rồi tiếp tục tồn trữ chất độc
trong cơ thể.
BS Kushi
đặc
biệt nhấn manh : Phải nhìn nhân rằng sự hợp tác của
những người xung quanh nhất là những người trong gia đình là điều rất cần thiết. Nếu người chồng bị
bênh và người vợ nấu ăn thì người vợ phải nâng
đỡ tinh thần người chồng bằng
cách ăn cùng một chế độ với chồng theo phương pháp
Macrobiotics.
Macrobiotics và lối sống thuận theo quy luật vũ trụ.
Vào n
ăm 1907
khi làn sóng Âu hoá bắt đầu tràn vào nước Nhật, ông
Sagen Ishizuka một bác sĩ thuộc quân đội Nhật Hoàng đã vận
động nhiều nghị sĩ, học
giã, thương gia trong nước để thành lập hiệp hội
SHOKU-YO-KAIL nhằm khơi dậy phong trào phát huy truyền thống Á Đông và những
giá trị cỗ truyền. Hiệp hội đặc biệt khuyến khích việc ăn uống và chữa bệnh phù hợp với quy luật vũ trụ theo nguyên lý âm dương
thông qua chế độ ăn ngủ
cốc và rau quả toàn phần, ít uống sữa, hạn chế
ăn thịt. Hơn 20 năm sau
chức vụ hội trưởng của hiệp hội được chuyển giao cho ông GEORGES OSHAWA. GS
Oshawa (1893-1966) là một người đã từng bị lao
phổi và ung thư dạ dày. Ông đã tự chữa khỏi bệnh cho mình
bằng chế độ ăn uống nói
trên. GS Oshawa là người đã từng viết hàng
trăm đầu sách và đi rất nhiều
nơi trên thế giới để diễn giải và quảng bá về
triết lý Á Đông và phương pháp ăn
uống để chữa bệnh. Vào năm 1960 trong một quyển sách được viết bằng Anh
ngữ**, lần đầu tiên ông chính thức dùng
từ Macrobiotics để đặt
tên cho phương pháp với hàm ý một quan niệm vĩ
đại (Macro) về cuộc sống
(bio). Theo ông Macrobiotics không chỉ là một phương
pháp chữa bệnh mà còn là một triết lý sống. Cách ăn uống nầy không chỉ tạo nên
những con người khoẻ mạnh mà còn xây dựng nên một thế giới hoà bình và hoà hợp.
Thức ăn không chỉ nuôi sống
thể xác mà qua sự lựa chọn những loại thực phẩm có
năng lượng Âm hoặc Dương thích
hợp có thể phát triển tinh thần và cải thiện hành vi
và tâm lý con người. Ngày nay những trung tâm nghiên cứu và truyền bá
Macrobiotics đã được
thành lập ở nhiều nước trên thế giới. Ở phương Tây
đã
có những cửa hàng Whole Food Market chuyên bán thực phẩm dưỡng
sinh và chống ung thư. Thuật ngữ Macrobiotics đã trở thành một
từ phổ thông được đưa
vào nhiều từ điển với ý nghĩa là một
phương pháp dưỡng sinh và chữa bệnh bằng cách ăn uống ngủ cốc và rau quả
toàn phần không có sự hổ trợ của hoá chất.
Theo quan
điểm "Thiên Nhân hợp
nhất" của triết học phương Đông, con người và vũ trụ là
một thể thống nhất. Con người là một tiểu vũ trụ tồn tại và khoẻ
mạnh trong điều
kiện tương thích với hoàn cảnh chung
quanh. Bệnh tật xảy ra chỉ là dấu hiệu cho thấy đã có một sự lệch lạc trong
cách sống, sinh hoạt và ăn
uống không phù hợp với tự nhiên. Chữa
bệnh là thực hiện những biện pháp nhằm tái lập lại sự cân bằng và hài hoà giữa
hai yếu tố Âm và Dương trong cơ thể cũng như giữa con người và hoàn cảnh bên
ngoài. Khi sự cân bằng đã được thiết lập và sự hài hoà
đã
được thực hiện, cơ thể tự có
sức đề kháng thích hợp với những yếu tố gây bệnh. Căn cứ vào nguyên lý nầy và qua quan sát cách ăn uống của những người nguyên
thuỷ, Macrobiotics dựa trên những nguyên tắc sau:
Tận dụng tính toàn thể và thống nhất của thức
ăn
Tính thống nhất trong chế
độ ăn nầy hàm nghĩa toàn thể,
toàn phần, không tách rời ý muốn nói đến khuynh hướng lựa chọn thực phẩm với đầy đủ
thành phần vốn có của nó. Một hạt gạo, một cây rau,
một củ hoặc một quả cũng giống như một con người. Tất cả đều là những
tiểu vũ trụ có đầy đủ tính Âm và Dương cân
bằng và cần thiết cho sự tồn tại và phát triển bình thường của nó. Giống như cơ
thể con người không thể hoạt động bình thường nếu thiếu một
bộ phận nào đó. Thực phẩm ăn
vào để nuôi sống cơ thể cũng cần tính toàn phần nầy mới đáp ứng được yêu cầu giữ gìn
sức khoẻ và sự hài hoà nơi con người. Do đó Macrobiotics khuyên chúng
ta nên ăn nguyên hạt ngủ cốc thay vì xay giả quá trắng . Rau quả cũng sẽ hữu ích
cho sức khoẻ nếu có thể ăn cả
phần vỏ (lê, táo, ổi…) hoặc ăn cả vừa củ vừa lá (củ cải, cà rốt…). Điều
quan trọng nhất trong chế độ ăn nầy là việc
ăn ngủ cốc toàn phần (chỉ lột bỏ phần vỏ cứng bên ngoài) còn gọi là ngủ cốc thô
thay cho thói quen ăn gạo
trắng, bánh mì trắng, bún, phở, mì gói, các loại bánh
kẹo, những loại đồ hộp…
Những thức ăn công nghiệp nầy không những tiềm tàng những hoá chất độc hại mà còn bị tước hết
phần mài và lớp vỏ ngoài của ngủ cốc. Phần vỏ ngoài của ngủ cốc
bao gồm rất nhiều sinh tố, khoáng chất và những acit amin cần thiết cho cơ thể.
Từ lâu người ta đã biết chính những chất xơ trong phần vỏ ngoài có giá trị rất lớn
trong việc phòng ngừa các bệnh tiêu hoá, tim mạch Gần đây những nghiên cứu mới nhất
ở Đại học Y khoa Baylor
và Bênh viện Nhi khoa Houston còn cho biết chất xơ
làm gia tăng sự tích luỷ
calcium trong cơ thể nên có tác dụng phòng ngừa chứng
loãng xương. Đối với bệnh ung
thư, chất xơ cũng có những giá trị đặc biệt. Cách ăn thực phẩm toàn phần nầy đã tận dụng được toàn bộ
chất xơ vốn chỉ tập hợp nhiều ở phần vỏ ngoài cũng như chỉ có ở thực phẩm thô
(không tinh chế) ở hạt cũng như ở rau quả. Chất xơ không bị hoà tan, không bị
hấp thu, góp phần tạo ra chất bả. Những chất bả khi đạt đến một định lượng nhất định sẽ kích thích
thành ruột sinh ra nhu động ruột. Ngoài việc thúc
đẩy nhanh sự lưu thông trong
ruột già, chống táo bón, làm giảm thời gian tiếp xúc
của các chất gây ung thư với niêm mạc ruột, chất xơ còn có thể kết dính những
chất độc hại nầy để
bài tiết theo phân ra ngoài. Do đó chất xơ
trong thực phẩm toàn phần góp phần quan trọng trong việc phòng, chống ung
thư.
Những loại thức ăn tốt cho sức khoẻ phải là những thức ăn
được nuôi trồng hoặc chế biến theo phương pháp
tự nhiên, không lai tạo, không bón phân hoá học và thuốc trừ sâu, không pha chế
với những hoá chất bổ dưỡng hoặc bảo dưỡng. Về điều này nhiều
nghiên cứu khoa học khác nhau đã cho biết bên cạnh những tác
nhân về ô nhiểm môi trường, về bức xạ, về thần kinh thì những chất độc từ những thức ăn bị nhiểm độc trong quá
trình trồng trọt hoặc chế biến đóng vai trò
quan trọng gây ra bệnh ung thư. Mặt khác những nghiên cứu về ăn chay cho rằng những người nguyên thuỷ sinh ra tự nhiên đã là những người ăn ngủ cốc và
rau quả hái lượm được
trong quá trình du mục. Chỉ sau khi biết dùng lửa con
người mới bắt đầu ăn thịt. Hơn
nữa khi so sánh cấu tạo bộ răng và dạ dày giữa con
người, những động vật ăn thịt
và những động vật ăn cỏ, người ta thấy loài người thích hợp với ăn chay nhiều hơn. Trên thực
tế người Esquimo sống phần lớn bằng thịt và mở có tuổi thọ rất ngắn, trung bình
chỉ 27,5 năm. Một bộ lạc người
Kirgese sống du mục ở miền Đông nước Nga với thức ăn chủ yếu bằng thịt có tuổi
thọ cũng không quá 40 năm. Thống kê của tổ chức Y Tế
Thế Giới cũng cho thấy các dân tộc ăn nhiều thịt nhất có tỉ lệ mắc bệnh tim và ung thư cao nhất. Ngược lại những nhóm người ăn chay có tỉ lệ mắc bệnh thấp nhất. Do đó
Macrobiotics khuyên nên hạn chế ăn thịt.
Nếu ăn thịt chỉ nên ăn cá hoặc
những loại thịt trắng, thịt động vật có lông vũ như gà, bồ câu … Ăn
cá sẽ không bị tích luỹ những chất độc hại nhiều như ăn thịt. Cá lại
giàu acit béo bảo hoà Omega 3 hữu ích cho hoạt
động của hệ tim mạch. Đối
với những tính năng chống ung thư, những nghiên cứu mới đây ở
trường Đại học London ở nước Anh đã cho thấy chế
độ ăn nhiều các loại đậu
và ngủ cốc có giá trị phòng và chống ung thư do những
thức ăn nầy chứa nhiều hợp
chất Inositol Pentakisphosphate có tính năng ức chế được enzyme phosphoinositide
3 – kinase vốn thúc đẩy sự phát triển các khối u ung thư.
Một ý nghĩa khác của việc phù hợp với tự nhiên là sự hài
hoà giữa thực phẩm, hoàn cảnh và con người. Một thực phẩm tốt cho sức
khoẻ là thực phẩm có sẳn từ môi trường chúng ta
đang sống. Do đó nên hạn chế
ăn những vật thực được nuôi
trồng hoặc mang lại từ xa đến. Tương tự như việc những con cá nước mặn khó sinh
tồn ở vùng nước ngọt, những cây cỏ xứ lạnh khó phát
triễn ở vùng nhiệt đới, cơ thể
con người chỉ thích nghi tốt với những thực phẩm có
cùng điều kiện đất đai khí
hậu.
Phù hợp với tự nhiên còn có những ý nghĩa khác.
Đó là chỉ nên
ăn khi đói, uống khi
khát. Ăn chậm, nhai kỷ. Hãy ăn hoặc uống bằng cả tinh thần
và ý thức. Hãy đặt tâm trí của mình vào bửa
ăn. Hãy thưởng thức nó. Nói theo ngôn ngữ Thiền đạo, ăn cơm, uống trà đều có thể
là những quá trình hành Thiền. Trong
thời đại ngày nay, khi nhịp sống quá nhanh và cuộc sống có quá nhiều
điều phải lo toan, không ít
người đã và đang ăn mà không phải là
ăn. Ngồi vào bàn ăn mà tâm lý vẫn căng thẳng vì
những áp lực của công việc. Miệng ăn mà mắt vẫn dõi theo những
dữ kiện trên màn hình vi tính. Ăn vội ăn vàng để còn kịp giờ
đến dự một buổi họp… Những
cách ăn uống phi tự nhiên như vậy sẽ dễ bị rối loạn
tiêu hoá, rối loạn nội tiết, tích luỷ những chất độc và dẫn đến bệnh tật. Ngược lại khi thưởng thức
thức ăn chúng ta sẽ biết rõ là mình đang ăn, đang thực sự tham gia
và cảm nhận quá trình ăn uống bằng tất cả các giác quan. Ăn như vậy sẽ huy động
được khả năng hợp nhất của cơ thể, sự hài hoà của tất
cả các cơ quan và các tuyến nội tiết trong việc hấp thu & chuyển hoá, tận
dụng được tối đa những năng
lượng do thức ăn mang lại cũng như đào thải
được những cặn bả không cần
thiết.
Cân bằng Âm
Dương.
Triết lý Á
Đông quan niệm mọi sự vật, mọi hiện tượng luôn có hai mặt
mâu thuẩn và thống nhất, hổ trợ và chế ước nhau
để tồn tại. Đó là hai mặt, hai thuộc tính căn bản Âm và Dương của mọi vật
chất. Một thực phẩm của vậy. Thực phẩm có thuộc tính Dương hay năng lượng Dương nhiều hơn thì được gọi
là thực phẩm Dương. Thực phẩm có thuộc tính Âm hay
năng lượng Âm trội hơn được
gọi là thực phẩm Âm. Bệnh tật là sự chênh lệch thái
quá giữa hai yếu tố Âm và Dương trong cơ thể. Do đó ta có thể lựa chọn những thức ăn chung quanh
mình để bổ sung và làm quân bình
lại Âm Dương thì cơ thể sẽ được khoẻ mạnh. Ví dụ
: một người tạng hàn (Âm) lại ăn nhiều đồ sống lanh (Âm) gây ra đau bụng tiêu chảy (Âm). Trường hợp nầy có thể làm quân bình lại bằng cách
ăn vài lát gừng nướng (Dương) và uống nước cháo gạo lứt (Dương) rang
(Dương). Ngoài ra qua cách chế biến người nội trợ khéo có thể cải biến tính chất
Âm hoặc Dương của thực phẩm cho nhu cầu riêng của mình. Ví dụ :
gừng tươi nhiều nước nên hơi Âm nhưng khi phơi khô thành Dương nếu sao vàng
sẽ thêm Dương, sao cháy tồn tính thì Dương tính càng cao.
Trên thực tế qua quan sát, chiêm nghiệm và thực hành chúng ta
có thể tìm ra những công thức thực phẩm phù hợp với
điều kiện riêng của cơ thể.
Một cách để nhận định sự hợp
lý hay chưa trong chế độ ăn uống là quan sát phân và
nước tiểu. Tình trạng Âm hoặc Dương của phân và nước tiểu cũng chính là tình
trạng Âm Dương của cơ thể do chế độ ăn uống gây ra. Nước tiểu càng trong là càng Âm, vàng sậm là quá Dương, hơi vàng như màu trà
là vừa. Phân màu xanh, màu đen, nhạt, lõng và không thành
khuôn là quá Âm; khô và cứng là quá Dương; mềm, thành khuôn, màu hơi vàng là
vừa.
Sau
đây
là một số đối ứng căn bản để phân định Âm, Dương trong việc lựa
chọn thực phẩm :
DƯƠNG
Màu
đỏ,
vàng
Vị
đắng,
mặn
Khô, cứng
Nhỏ, cô
đọng
Dưới lòng
đất
Mọc hướng xuống
Sinh sản ở vùng khí hậu mát, lạnh
ÂM
Màu xanh
Vị chua, ngọt
Mọng nước và mềm
Lớn, giãn nở
Trên mặt
đất
Mọc hướng lên
Sinh ra ở vùng khí hậu nóng,
ấm
Một số chế
độ ăn
uống tự nhiên có gíá trị dưỡng sinh
cao
Để hiểu
thêm về giá trị của phương pháp Macrobiotics, chúng
ta thử liên hệ với một số chế độ ăn uống tự nhiên của những
cộng đồng dân cư được đánh giá
là ít bệnh tật và có tuổi thọ cao. Trước hết phải kể
đến những người Mỹ
nguyên thuỷ. Hiệp hội Y Khoa Hoa Kỳ đã khám phá thấy
rằng những người Indian nầy đã không hề bị cao huyết áp,
cũng không có ai bị xơ vữa động mạch do thức ăn chính của họ thời bấy giờ
là bắp. Dĩ nhiên thời ấy những người nguyên thuỷ chỉ
xài bắp nguyên hạt chứ không phải là loại bắp tinh chế như bây giờ. Một cộng
đồng khác có nhiều người sống
lâu trên 100 tuổi và người dân ở đây cũng hiếm khi bênh tật là nhưng thuộc bộ lạc Hounza sống ở vùng núi phía bắc Ấn
Độ và Pakistan. Chế độ ăn của người Hounza chủ yếu là ngủ cốc toàn phần, trái cây tươi và sữa dê. Một chế độ ăn khác cũng thường được các
nhà dinh dưỡng lưu ý là chế độ ăn uống Địa Trung Hải gồm ngủ cốc, rau
quả, cá và dầu ô liu. Những người dân ở cộng
đồng nầy cũng có tuổi thọ cao
và ít bệnh về tim mạch.
Điều dễ nhân
thấy ở những chế độ ăn uống trên là ăn ngủ cốc toàn
phần, không hoặc ít ăn thịt
và có cuộc sống gần với tự nhiên hơn các dân tộc phát
triển. Từ thực tế nầy nhiều người đã nghỉ đến việc sử dụng những chất xơ, sinh tố
hoặc khoáng chất - những chất mà trong thức
ăn tinh chế thiếu hoặc không
có - để bổ sung vào khẩu phần ăn hàng ngày.
Điều nầy không phù hợp với những nguyên tắc toàn phần và tự nhiên của
Macrobiotics. Do đó hiệu quả
cũng khác nhau. Chẳng hạn đối với bệnh nhân tiểu đường người ta khuyên dùng gạo lứt hoặc bắp thô thay cho gạo trắng vì những thức
ăn nầy có chỉ số no cao hơn
và chỉ số đường thấp hơn so với gạo trắng nhờ vào chất xơ có trong ngủ cốc thô. Tuy nhiên nếu tách riêng ra vừa
ăn gạo trắng vừa uống
thêm chất xơ tương ứng thì chỉ số đường không thấy giảm bao nhiêu. Giống như vậy chất xơ trong ngủ cốc thô có thể làm giảm
cholesterol trong máu từ 10% đến 20%, nhưng nếu tách riêng
ra để dùng thì chỉ giảm dưới 5%. Mới đây nhóm nghiên cứu của Giáo
sư John Erdman thuộc trường Đại học Illinois (Mỹ) thử nghiệm các chất chống ung thư
của cà chua cũng cho biết ăn nguyên quả cà chua có tác
dụng ngừa ung thư hiệu quả hơn so với chỉ dùng chiết xuất carotenoides từ cà
chua. Đó là chưa kể nếu dùng dưới hình thức những chất chiết xuất hoặc phân
tách riêng ta vẫn còn rơi vào vòng lẩn quẩn chế biến công nghiệp, tách chiết và
sử dụng phụ gia, hoá chất …
Trong việc thực hành chế
độ ăn uống Macrobiotics điều thắc mắc trước nhứt
là làm sao bảo đảm được nguồn cung cấp thực phẩm sạch, không có chất hoá
học. Điều nầy phải cần đến sự nhận thức và cố gắng
của toàn xã hội, trước hết là những nhà sản xuất nông nghiệp, những nông gia. Từ
lâu chúng ta đã biết đến rau
sạch. Gần đây, từ năm 2003 một nhóm nhà khoa học
thuộc Liên Hiệp Các Hội Khoa Học Kỹ Thuật Việt nam đã phối hợp với Viện Di Truyền
Nông Nghiệp và Trung Tâm Nghiên Cứu cây đặc sản đã nghiên cứu trồng
lúa sạch, không sử dụng phân hoá học, không dùng thuốc trừ sâu mà vẫn
đảm bảo được năng suất
và phẩm chất hạt gạo. Được biết lần đầu tiên gạo
sạch đã được giới
thiệu và bày bán tại Hội Chợ Công Nghệ và Thiết Bị
Bắc Trung Bộ tổ chức tại Nghệ An vào tháng 5 năm 2005 vừa qua. Dù sao nguồn
thực phẩm sạch vẫn còn là vấn đề khó giải quyết ở nhiều nơi, tạm thời chúng ta phải
bằng lòng với giải pháp dùng thực phẩm toàn phần có
sẳn trên thị trường.
Một khó kh
ăn
khác là thức ăn thô thường ăn không ngon miệng. Tất cả thành công đạt
được đều cần đến sự nổ lực. Sức khoẻ và hạnh phúc
cũng vậy. Trước hết cần thay đổi nếp nghỉ, thay đổi thói quen về ăn uống. Điểm quan
trong là sự cố gắng và sáng tạo của những người nội
trợ trong việc lựa chọn và chế biến thức ăn. Riêng về thức ăn chính, người cao tuổi có thể chọn nếp
lứt thay cho gạo lứt. Nếp lứt mềm, dẽo dễ ăn hơn gạo lứt. Ở nước ta nhiều nơi có
sẳn nguồn bắp dồi dào. Bắp trái là nguồn thực phẩm
quý giá có tính toàn phần và giá trị bổ dưỡng vượt hẳn gạo lứt. Bắp tươi có thể
luộc nguyên trái hoặc dùng dao bào thái mỏng để nấu canh, nấu cháo… Một nguồn thực phẩm quan trọng
khác cũng thường được nhắc đến là mè.
Mè hạt nhỏ, dương tính cao lại chứa nhiều chất đạm và những acit amin thiết
yếu cho cơ thể. Mè có hàm lượng Selenium rất cao có tính năng chống ung thư. Theo y học cổ,
mè là một vị thuốc thuộc hàng thượng
phẩm. Mè có vị ngọt, tính bình, không độc. Mè có tác dụng ích gan,
bổ thận, nuôi huyết, nhuận táo: là thuốc bổ huyết, ích khí, có thể bồi bổ ngủ
tạng, làm bền gân cốt, sáng tai mắt, quên đói, sống lâu. Ngoài ra những
người nội trợ có thể lựa chọn và thay đổi thức ăn hàng ngày trong số
những thực phẩm có sẳn trong vùng phù hợp với những nguyên tắc phổ quát của
Macrobiotics và đáp ứng được
những nhu cầu cơ bản của cơ thể. Riêng đối với một số bệnh được đánh giá
là cực âm, nhất là bệnh ung thư, GS Oshawa khuyên nên
triệt để dùng các loai hạt (gạo lứt, lúa mạch đen, bắp, kê,
hạt hướng dương, mè, đậu đỏ,
đậu đen…) và cố gắng hạn chế tối đa các loại rau quả vì rau quả tươi hầu hết đều thuộc âm tính.
Một số người cho rằng chế
độ ăn Macrobiotics sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng, chủ yếu
là thiếu chất đạm. Có lẽ suy nghỉ nầy bắt nguồn từ tên gọi "gạo lứt muối mè". Thực ra ăn theo Macrobiotics không chỉ có gạo lứt và muối mè. Chưa kể đến việc trong ngủ cốc thô có chứa lượng chất đạm, sinh
tố và khoáng chất nhiều hơn hẳn so với ngủ cốc tinh
chất, những người thực hành Macrobiotics đều được khuyên nên thay
đổi tập hợp thức ăn ăn
vào hàng ngày trong số những loại ngủ cốc, các loại
đậu và rau củ có sẳn. Tính đa dạng của khẩu phần ăn vừa giúp ngon miệng vừa tránh
được sự thiếu hụt một loại acid amin hoặc vi chất nhất định do ăn thường
xuyên một loại thực phẩm. Vào năm 1972 Bác sĩ Frederick Stare ở trường Đại
Học Harvard đã tiến hành một cuộc thí nghiệm về dinh
dưỡng trên những nhóm người ăn
chay. Ông nhận thấy tất cả các nhóm đều đã
ăn vào hơn gấp đôi
nhu cầu tối thiểu về protein. Các nhà khoa học cho
rằng có nhiều người suy dinh dưỡng ở những nước nghèo không phải vì những người
nầy không ăn thịt
mà do họ không có đủ thực phẩm để ăn. Khẩu phần ăn của họ không những thiếu
về lượng mà còn đơn điệu về chủng loại nên
không tập hợp được đủ các chất
cần thiết. Về mặt nầy có thể nói Macrobiotics là một
chế độ ăn chay lý tưởng
vì ngay cả ở thực đơn nghiêm nhặt nhất – không
bao gồm thịt trắng và cá – thì chế độ ăn nầy vẫn tận dụng được phần thô của ngủ cốc
và lưu ý đến yếu tố cân băng Âm Dương, những điều mà chế độ ăn chay
thông thường không quan tâm đến.
Sau
đây
là bản phác thảo tổng quát chế độ ăn uống theo Macrobiotics trong những
trường hợp bình thường cho yêu cầu dưỡng sinh
để phòng ngừa những căn bệnh “nhà giàu", những
căn bệnh của thời đại công
nghiệp như béo phì, tiểu đường, ung thư, huyết áp cao, tim mạch. Người thực
hành có thể gia giảm tuỳ theo khẩu vị, điều kiện làm
việc, khí hậu…
BẢNG PHÁC THẢO TỔNG QUÁT CHẾ
ĐỘ ĂN UỐNG MACROBIOTICS

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét